Bằng
tiến sĩ Việt Nam :
Hàng mã
Lê Diễn Đức
Ngày 6 Tháng Ba năm 2014, tờ “m.vietnam.net”
đăng bài “24.000 tiến sĩ Việt Nam đang làm gì?” cho biết, theo số liệu thống kê
mới nhất của Bộ Giáo Dục và Ðào Tạo (GD & ÐT), tính đến năm 2013 có 633 tiến
sĩ là giảng viên các trường cao đẳng, 8.519 tiến sĩ là giảng viên các trường
đại học” rồi đặt câu hỏi “Vậy 15.000 tiến sĩ đang làm việc ở những đâu?”
Bằng tiến sĩ ở Việt Nam là cả một câu chuyện khôi hài
và khá dài dòng.
Cho đến thập niên 90, do chất lượng và trình
độ chuyên môn kém của các trường đại học Việt Nam
nên tiến sĩ của miền Bắc Việt Nam
được công nhận ở nước ngoài qua đường nghiên cứu sinh, chủ yếu ở các nước trong
phe xã hội chủ nghĩa.
Ði nghiên cứu sinh là một việc ưu đãi, phải
có lý lịch tốt, là cán bộ của các viện hay giảng viên trường đại học, nhưng
nhiều khi cũng phải lo lót chạy chọt. Ra tới nước ngoài rồi thì đa số dành thời
gian cho học và nghiên cứu thì ít, mà cho đi buôn thì nhiều. Không hiếm nghiên
cứu sinh đến thời gian nộp luận án (thông thường sau 3 năm, trừ thời gian học
tiếng) phải nhờ các sinh viên năm cuối viết giúp, học thuộc lòng và chạy tới
giáo sư cố vấn (promotor) để tìm sự hỗ trợ. Khi bảo vệ luận án thì lúng túng,
thiếu tự tin, nhưng rốt cuộc cũng đạt điểm trung bình nhờ sự đồng cảm và “hữu
nghị”.
Tôi là người đã chứng kiến những cuộc bảo vệ
như thế ở Ba Lan, nên đây là sự thật. Chính vì thế mà Giáo Sư Nguyễn Văn Hiệu,
cựu viện trưởng Viện Khoa Học Việt Nam , nói một câu nổi tiếng “cứ dắt
một con bò sang Nga thì trở về là có một phó tiến sĩ”.
Ông Nguyễn Văn Hiệu là một trong số những
nghiên cứu sinh hiếm hoi, có nhiều công trình khoa học ở Viện Nghiên Cứu Nguyên
Tử Dupna, được Liên Xô (cũ) phong hàm giáo sư khi mới 30 tuổi. Nhưng khi ông về
nước, được cơ cấu vào Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng, thực hiện đúng đường lối
tận dụng trí thức của đảng. Lo việc đảng, lãng chuyên môn, điều kiện nghiên cứu
bằng không, rốt cuộc ông cũng trở thành một “con bò”.
Ðùng một cái vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam bỏ
luôn chữ “phó”, tất cả phó tiến sĩ ngủ dậy sau một đêm bỗng dưng trở thành tiến
sĩ. Ðồng thời, các trường đại học Việt Nam cũng làm luôn việc nghiên cứu
sinh và tự cấp bằng tiến sĩ, đồng loạt, như một phong trào. Trường Nguyễn Ái
Quốc, cái nôi đào tạo cán bộ chính trị cho đảng cộng sản Việt Nam (ÐCSVN), nơi
giảng dạy chủ nghĩa Mác-Lenin đã bị vứt vào sọt rác lịch sử, cũng cấp bằng tiến
sĩ. Văn bằng tiến sĩ từ đây được sản xuất nhanh chóng, đâu đâu cũng thấy, trở
thành một đề tài cho công chúng đàm tiếu, khinh thường, chẳng có một chút giá
trị nào trên học đường quốc tế.
Cần phải lưu ý rằng, học vị tiến sĩ là văn
bằng cao nhất trong hệ thống đại học phương Tây, do đó hệ thống đào tạo tiến sĩ
của họ được thiết lập rất chặt chẽ và nghiêm chỉnh.
Chương trình đào tạo tiến sĩ là để cung cấp
cho xã hội những nhà khoa học chuyên nghiệp và giáo sư đại học tương lai, những
người am hiểu chuyên sâu một lĩnh vực nào đó, có khả năng phát hiện, thiết kế
thí nghiệm hay nghiên cứu giải quyết vấn đề, có khả năng phân tích và diễn giải
kết quả nghiên cứu, có khả năng truyền đạt kết quả nghiên cứu đến đồng nghiệp
trong chuyên ngành và công chúng.
Trong khi ở Việt Nam , các vị lãnh đạo các tổng công
ty, tập đoàn, doanh nghiệp trên các tấm danh thiếp đều có hai chữ “tiến sĩ”.
Chưa có quốc gia nào trên thế giới khi xuất hiện trên báo chí học vị “tiến sĩ”
được gắn kèm với các nhà lãnh đạo nhiều như ở Việt Nam .
Việt Nam là quốc gia có số lượng giáo sư,
tiến sĩ nhiều nhất Ðông Nam Á nhưng nghiên cứu khoa học lại nằm trong nhóm thấp
nhất của khu vực, không có một trường đại học nào của Việt Nam nào được đứng
trong bảng xếp hạng 500 trường đại học hàng đầu thế giới. Ông Nguyễn Khắc Hùng,
cựu chuyên viên đối ngoại, Học Viện Hành Chính Quốc Gia từng nói số người có
bằng tiến sĩ ở Việt Nam
cao gấp 5 lần Nhật Bản.
Dốt hay phô trương. Mặc cảm dốt nát và thua
thiệt về văn hóa, các quan chức phải lấy cái mác “tiến sĩ” gắn vào cho mình,
như là một thứ bùa hộ mệnh.
Ngoài sự khoe khoang, háo danh, sĩ diện,
bằng cấp cũng là chiếc giấy thông hành trên con đường lọt vào các cơ quan nhà
nước và leo lên các bậc thang quyền chức. Cho nên trào lưu “chạy” bằng giả lan
tràn, trở thành phổ biến trong xã hội Việt Nam .
Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch Hà Nội, học kém,
chật vật kiếm được cái bằng kiến trúc sư ở Ba Lan, nhưng khi có chức, có quyền
phải kiếm bằng được bằng “tiến sĩ” của trường... Nguyễn Ái Quốc. Kiếm bằng cách
nào chỉ có trời biết! Ðây là một trong vô vàn ví dụ, trong chính sách chiến
lược lạ lùng của Hà Nội, đến năm 2020, 100% công chức diện thành phố quản lý
(cấp chi cục trưởng và chi cục phó) có bằng tiến sĩ!
Nguyễn Ngọc Ân, giám đốc Sở Văn Hóa-Thể Thao
và Du Lịch tỉnh Phú Thọ đã có học vị tiến sĩ với đề tài “vấn đề di sản văn hóa
với việc phát triển kinh tế du lịch tỉnh Phú Thọ” từ trường đại học Nam Thái
Bình Dương của Mỹ. Trong khi đó ông Ân không hề biết tiếng Anh, chỉ có bằng cử
nhân tại chức kinh tế-quốc dân khóa 24 (lớp học được tổ chức tại thành phố Việt
Trì)!
Nguyễn Văn Ngọc, thời điểm còn là Phó bí thư
tỉnh ủy Yên Bái, chỉ trong vòng 6 tháng đã “dùi mài kinh sử” với 17 ngàn USD,
cũng trở thành “tiến sĩ” của đại học Nam Thái Bình Dương.
Trong khi đó, trường đại học Online này
không được thừa nhận về tiêu chuẩn (unaccredited), bị báo chí phanh phui từ
nhiều năm qua.
Dương Chí Dũng, cựu chủ tịch Hội Ðồng Quản
Trị Vinalines, người vừa nhận án tử hình vì tội tham nhũng, đi xuất khẩu lao
động ở Cộng Hòa Dân Chủ Ðức, về Việt Nam và làm cán bộ bình thường, đi học lớp
tại chức tại đại học hàng hải, rất nhanh sau đó lấy bằng thạc sĩ, rồi tiến sĩ
kinh tế. Tiến sĩ kinh tế này đã làm Vinalines nợ nần, thất thoát hàng tỷ đô la.
Vũ Viết Ngoạn, chủ tịch UƯy Ban Giám Sát Tài
Chính Quốc Gia, sử dụng bằng “tiến sĩ” tài chính qua chương trình đào tạo từ xa
của La Salle (khác với đại học La Salle tại Pennsylvania), cũng là một trường
“rởm” ở Mỹ.
Ông Phạm Minh Hạc, giáo sư của Bộ GD &
ÐT đã từng nói trong bài “Cán bộ xài bằng giả để kiếm cái ghế” (bee.net.vn):
“Tôi còn nhớ năm 2001, Bộ GD & ÐT phát
động phong trào thanh tra bằng giả, đưa nó thành chủ trương của ngành. Ðến năm
2005, sau 4 năm, đã phát hiện được 10 ngàn bằng giả. Số bằng giả này chủ yếu
tập trung ở công chức nhà nước trong đó có cả cán bộ cấp cơ quan trung ương”.
Trong bài “Bằng giả: Sờ đâu dính đó!”, ngày
06 Tháng Mười, 2012, tờ Người Lao Ðộng viết:
“Năm 2003, Ban Chỉ Ðạo Kiểm Tra Văn Bằng,
Chứng Chỉ tỉnh Cà Mau phát hiện tỉnh này có trên 600 trường hợp cán bộ sử dụng
bằng cấp có vấn đề. Trong đó, nhiều cán bộ đảm nhiệm những chức vụ quan trọng
đã bị xử lý kỷ luật. Tuy nhiên, đa số những người này vẫn cứ thăng quan tiến
chức.”
Tại phiên họp ngày 25 Tháng Hai năm 2014 của
Hội Ðồng Quốc Gia Về Giáo Dục và Phát Triển Nhân Lực giai đoạn 2011-2015, Bộ
Trưởng Bộ GD & ÐT Phạm Vũ Luận nói “thực tế những người có bằng giả hay
bằng thật, nhưng chất lượng giả chỉ có thể ‘chui’ vào hệ thống công chức nhà
nước, chứ không thể vào được các doanh nghiệp tư nhân”.
Ðương nhiên, các công ty tư nhân là những
doanh nghiệp lời ăn, lỗ chịu, họ phải thận trọng kỹ càng trong việc tuyển dụng,
mà đối với họ, không quá coi trọng bằng cấp, chủ yếu là năng lực chuyên môn,
tay nghề.
Cho nên, nếu quay lại câu hỏi “15.000 tiến
sĩ đang làm việc ở những đâu?”, quá dễ dàng để thấy rằng, những tiến sĩ hữu
danh, vô thực đang nằm trong bộ máy cầm quyền, ăn tục nói phét, sáng cắp ô đi,
tối cắp về. Lực lượng “trí thức” rởm này là biểu tượng của lối sống tự sướng,
kiêu ngạo, giả dối, lưu manh của cả hệ thống.
Con đường xã hội chủ nghĩa mà “đến hết thế
kỷ này chưa chắc đã thấy” (lời của Tổng Bí Thư ÐCSVN Nguyễn Phú Trọng) được hô
hào bằng những mỹ từ trên các băng rôn, áp phích đỏ chót, giăng khắp nơi để lừa
bịp xã hội, lấp liếm sự ảo tưởng và giả tạo, y chang những cái bằng tiến sĩ vô
giá trị, một thứ hàng mã không hơn không kém.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét