25/10/15

Danh ngôn?
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Có một bạn (KHL) hỏi rằng nếu câu nói về giáo dục của ông cụ Hồ không được xem là triết lí, thì có thể xem đó là danh ngôn không? Tôi thấy câu hỏi này thú vị, và tôi nghĩ ngay đến một câu hỏi nghiên cứu: yếu tố nào làm cho một câu nói hay bài diễn văn trở thành danh ngôn. Danh ngôn ở đây hiểu theo nghĩa tiếng Anh là wisdom. Tôi phải nói rằng trong cái nhìn của cá nhân tôi, chưa có một câu nói nào của giới lãnh đạo Việt Nam nào có thể xem là danh ngôn cả.

Đặc tính nào làm nên một danh ngôn? Thú thật, câu trả lời ngắn gọn là tôi không biết. Nghe qua thì có vẻ vô lí, nhưng vì tôi không phải là người làm về xã hội học, nên không rõ các tiêu chí về danh ngôn. Nhưng đọc qua các danh ngôn, tôi nghĩ đến 6 tố chất sau đây có thể làm cho một câu phát biểu thành danh ngôn.
1.  Nội hàm tri thức. Tôi nghĩ nói đến danh ngôn là phải nói đến tri thức, tức là câu nói đó phải có hàm lượng tri thức rất cao và rất nặng kí. Chúng ta làm khoa học đều biết rằng qui trình (hay cũng có thể nói là “quá trình”) sản xuất ra tri thức là 3 bước. Bước 1 là thu thập dữ liệu thô (data). Từ data chúng ta dùng thống kê học hay phương pháp suy luận để chuyển thành thông tin – information. Bước sau cùng là qua kiểm tra độc lập và suy luận chúng ta biến information thành tri thức – knowledge. Trong cái qui trình data → information → tri thức, thì tri thức là có giá trị cao nhất.
Do đó, tiêu chí số 1 của một danh ngôn là nó phải bao hàm tri thức. Tôi nghĩ rất nhiều câu tục ngữ – thành ngữ của ta có thể xem là có tính danh ngôn. Ví dụ như những câu “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng“, “Không thầy đố mày làm nên“, “Học thầy không tầy học bạn“, v.v. rõ ràng là một câu có hàm lượng tri thức cao, và có lẽ được đúc kết từ kinh nghiệm rất lâu đời của tổ tiên. Ở nước ngoài, tôi thấy câu của Malcolm X “Education is your passport to the future, for tomorrow belongs to the people who preprare for it today” (Giáo dục là tấm giấy thông hành của bạn để đi đến tương lai, bởi vì ngày mai thuộc về những ai chuẩn bị cho nó ngày hôm nay). Tổng thống John F Kennedy cũng có một câu về giáo dục mà tôi nghĩ là xứng đáng đẳng cấp danh ngôn: “The goal of education is the advancement of knowledge and the dissemination of truth” (tạm dịch: mục tiêu của giáo dục là tiến bộ tri thức và truyền bá sự thật).
  1. Tính mới. Không chỉ là tri thức, nhưng tri thức phải mới, hiểu theo nghĩa nội dung chưa được ai nói đến trước đây. Cái mới cũng có thể là hình thức mới, chữ mới, cách nói mới, dù ý tưởng không hẳn là mới. Ví dụ như câu “I am the captain of my soul” (có thể hiểu “tôi là của thủ lĩnh của tâm hồn tôi”) của Mandela, tôi thấy rất mới, và nó có chất thơ trong đó. Tôi không rõ câu này có phải là danh ngôn, nhưng cá nhân tôi thì rất thích.
  1. Tính phổ quát (universality). Nhưng một danh ngôn phải có tri thức mang tính phổ quát, hay qui luật có thể đúng cho mọi thời đại. Những danh ngôn mà khi phát biểu ra làm cho người nghe thấy có lí. Chẳng hạn như câu của Abraham Lincoln, “No man has a good enough memory to be a successful liar” (tạm dịch: không ai có trí nhớ tốt để trở thành một kẻ nói dối giỏi), chúng ta thấy nó rất có lí. Chính quyền và giới chính trị gia có thể nói dối với nhiều người một lần, nói dối với một người trong nhiều lần, nhưng khó có thể nói dối với nhiều người trong nhiều lần. Cái có lí còn là trải nghiệm cá nhân nữa. Ví dụ như đọc câu “Chữ tài liền với chữ tai một vần” (Nguyễn Du) bất cứ ai trong chúng ta cũng thấy cái chân lí trong câu đó, vì chúng ta hay thấy trong thực tế những người tài thường mắc nạn. (Tôi nghĩ ngay đến những người như Trần Huỳnh Duy Thức, và do đó tôi thấy câu đó nó … thấm).
  1. Tính quốc tế. Một danh ngôn không chỉ mang tính địa phương, mà phải vượt qua quốc gia trở thành quốc tế. Những câu nói trong bài diễn văn “I have a dream” không chỉ liên quan đến nước Mĩ thời đó, mà còn trở nên chủ đề thảo luận trên khắp thế giới về tình trạng kì thị chủng tộc. Chẳng hạn như ông Nelson Mandela, ông bị giam tù ở Nam Phi, và trong thời gian đó ông rút ra nhiều kinh nghiệm và chân lí mà sau này viết thành cuốn “Long Walk to Freedom“, cuốn đó không chỉ áp dụng cho Nam Phi mà cho mọi người đấu tranh cho tự do. Tôi nhớ hoài câu ông nói “For to be free is not merely to cast off one’s chains, but to live in a way that respects and enhances the freedom of others” (tạm dịch: tự do không chỉ có nghĩa là không còn gông cùm, mà là sống một cuộc sống tôn trọng và xiển dương quyền tự do của người khác). Câu đó không chỉ đúng ở Nam Phi mà còn đúng ở Việt Nam, và khắp nơi trên thế giới. Ngược lại, một câu nói mang tính địa phương (như “Tôi chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam“) thì khó có thể xem là danh ngôn được.
  1. Tính thẩm mĩ của ngôn từ. Tôi nghĩ yếu tố này rất quan trọng, vì nó gây ấn tượng tốt ở người đọc/nghe, mà còn làm tăng phẩm chất của nội hàm câu nói. Một trong những câu gây ấn tượng trong tôi nhất, và tôi xem là danh ngôn là câu của Thiền sư Vạn Hạnh “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Chỉ một câu ngắn những chữ nghĩa và ví von đẹp mà đúc kết được một qui luật tự nhiên. Có khi người ta làm cho câu chữ hay và mới bằng cách “đảo ngữ”. Chẳng hạn như thay vì nói “Don’t ask …” thì Kennedy nói “Ask not …” Phải nói đó là một sự hoán chuyển tài tình! Đảo ngữ có thể đem lại một sức sống mới của một câu văn tầm thường. Một danh ngôn với ngôn ngữ đẹp phải kể đến câu nói của Martin Luther King: “We must rise to the majestic heights of meeting physical force with soul force“. Câu này tôi thấy ngữ vựng tiếng Anh rất đẹp (dù có phần uyển ngữ) và cách cấu trúc câu văn rất cân xứng, nhưng thú thật tôi không đủ khả năng tiếng Việt để dịch sao cho nó thoát ý. Câu nói hàm ý rằng chúng ta phải nâng cao tinh thần để đối phó với sức mạnh của bạo lực.
  1. Ngắn gọn và tương phản. Tôi để ý thấy những câu danh ngôn thường là những câu văn ngắn gọn (như “I am the captain of my soul” của Nelson Mandela), hay có tính tương phản và đối sánh. Ví dụ như câu của kennedy “Forgive your enemies, but never forget their names” (Hãy quên kẻ thù của chúng ta, nhưng đừng quên tên của kẻ thù). Câu đầu thì chẳng có ý gì đáng kể, nhưng câu thứ hai làm chúng ta phải suy nghiệm! Một câu khác của Nelson Mandela cũng mang tính bán nghịch lí: “Do not judge me by my successes, judge me by how many times I fell down and got back up again” (Đừng đánh giá tôi qua những thành công, hãy đánh giá tôi qua số lần tôi tôi bị vấp ngã và gượng dậy). Cái hay của câu này là trong câu đầu (“Đừng đánh giá tôi qua những thành công”) có hiệu quả thu hút chú và câu khách, nhưng câu thứ hai thì làm cho chúng ta phải suy nghĩ và tự an ủi mình vì tất cả chúng ta ai cũng có thất bại trong đời.
Dùng những tiêu chí trên để đánh giá, tôi chưa thấy có câu nào của các lãnh đạo Việt Nam xứng đáng là danh ngôn cả. Những câu mà có lẽ rất nhiều bạn ở VN nghe hàng ngày suốt 60 năm qua như “Không có gì quí hơn độc lập và tự do” không thể nào là danh ngôn được, cho dù được dịch sang tiếng Anh (“Nothing is more precious than independence and liberty“), vì hàm lượng tri thức thấp, thiếu tri thức phổ quát (thiếu “dân chủ”), nó mang tính quốc tế nhưng thiếu mĩ cảm. Có một câu của ông cụ mà báo chí ca ngợi rất nhiều nhưng tôi chẳng thấy nó hay chỗ nào. Đó là câu “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” Dĩ nhiên, tôi hiểu câu đó và bối cảnh ra đời của nó, nhưng vẫn chẳng có gì hay, vì không có hàm lượng tri thức, không phổ quát, chữ nghĩa thì cũng bình thường. Người Tây phương hay nói câu đó trong mỗi buổi meeting. Có những câu như lề phải lề trái và con cừu cũng gây ồn ào một thời gian, nhưng tôi chẳng thấy nó có gì hay (thực ra câu đó là một danh ngôn của người Đức — nếu tôi nhớ không lầm).
Nhưng công bằng mà nói, tôi nghĩ ở Việt Nam các lãnh đạo rất khó có những phát biểu hay hay danh ngôn. Tôi không nói đến trình độ học vấn và kiến thức của họ còn hạn chế; tôi muốn nói đến một lí do xa hơn: đó là môi trường xã hội – chính trị. Lãnh đạo Việt Nam là đảng viên đảng cộng sản, và cơ chế tổ chức trong đảng thì cũng như tôn giáo. Trong cái tôn giáo đó, họ khó có thể nói cái gì ra ngoài giáo điều là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Mà, giáo điều thì chẳng có cái gì mới, hiếm có cái gì hay, và ngôn ngữ thì cũng rất chán vì giống như kinh kệ. Trong cái môi trường bị gò bó về tư tưởng như thế, các lãnh đạo dù có thể rất tài nhưng rất khó có thể sáng tạo được. Nếu họ nói ra cái ý gì mới thì có thể mâu thuẫn với giáo điều của đảng và rất nguy hiểm cho “tính mạng chính trị” của họ, nên cách an toàn nhất là cứ lặp lại những gì đã được nói đến trong quá khứ. Do đó, các phát biểu của các lãnh đạo Việt Nam không có tính sáng tạo, thiếu hàm lượng tri thức phổ quát, chữ nghĩa thì không đẹp, nên rất khó trở thành danh ngôn.
———-


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét