Danh ngôn?
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
Có một bạn
(KHL) hỏi rằng nếu câu nói về giáo dục của ông cụ Hồ không được xem là triết
lí, thì có thể xem đó là danh ngôn không? Tôi thấy câu hỏi này thú vị, và tôi
nghĩ ngay đến một câu hỏi nghiên cứu: yếu tố nào làm cho một câu nói hay bài
diễn văn trở thành danh ngôn. Danh ngôn ở đây hiểu theo nghĩa tiếng Anh là wisdom.
Tôi phải nói rằng trong cái nhìn của cá nhân tôi, chưa có một câu nói nào của
giới lãnh đạo Việt Nam nào có thể xem là danh ngôn cả.
Đặc tính nào
làm nên một danh ngôn? Thú thật, câu trả lời ngắn gọn là tôi không biết. Nghe
qua thì có vẻ vô lí, nhưng vì tôi không phải là người làm về xã hội học, nên
không rõ các tiêu chí về danh ngôn. Nhưng đọc qua các danh ngôn, tôi nghĩ đến 6
tố chất sau đây có thể làm cho một câu phát biểu thành danh ngôn.
1. Nội hàm tri thức. Tôi nghĩ nói
đến danh ngôn là phải nói đến tri thức, tức là câu nói đó phải có hàm lượng tri
thức rất cao và rất nặng kí. Chúng ta làm khoa học đều biết rằng qui trình (hay
cũng có thể nói là “quá trình”) sản xuất ra tri thức là 3 bước. Bước 1 là thu
thập dữ liệu thô (data). Từ data chúng ta dùng thống kê học hay phương pháp suy
luận để chuyển thành thông tin – information. Bước sau cùng là qua kiểm tra độc
lập và suy luận chúng ta biến information thành tri thức – knowledge. Trong cái
qui trình data → information → tri thức, thì tri thức là có giá trị cao nhất.
Do đó, tiêu chí
số 1 của một danh ngôn là nó phải bao hàm tri thức. Tôi nghĩ rất nhiều câu tục
ngữ – thành ngữ của ta có thể xem là có tính danh ngôn. Ví dụ như những câu “Gần
mực thì đen, gần đèn thì sáng“, “Không thầy đố mày làm nên“, “Học
thầy không tầy học bạn“, v.v. rõ ràng là một câu có hàm lượng tri thức cao,
và có lẽ được đúc kết từ kinh nghiệm rất lâu đời của tổ tiên. Ở nước ngoài, tôi
thấy câu của Malcolm X “Education is your passport to the future, for
tomorrow belongs to the people who preprare for it today” (Giáo dục là tấm
giấy thông hành của bạn để đi đến tương lai, bởi vì ngày mai thuộc về những ai
chuẩn bị cho nó ngày hôm nay). Tổng thống John F Kennedy cũng có một câu về
giáo dục mà tôi nghĩ là xứng đáng đẳng cấp danh ngôn: “The goal of education
is the advancement of knowledge and the dissemination of truth” (tạm dịch:
mục tiêu của giáo dục là tiến bộ tri thức và truyền bá sự thật).
- Tính mới. Không chỉ là
tri thức, nhưng tri thức phải mới, hiểu theo nghĩa nội dung chưa được ai
nói đến trước đây. Cái mới cũng có thể là hình thức mới, chữ mới, cách nói
mới, dù ý tưởng không hẳn là mới. Ví dụ như câu “I am the captain of my
soul” (có thể hiểu “tôi là của thủ lĩnh của tâm hồn tôi”) của Mandela,
tôi thấy rất mới, và nó có chất thơ trong đó. Tôi không rõ câu này có phải
là danh ngôn, nhưng cá nhân tôi thì rất thích.
- Tính phổ quát
(universality). Nhưng một danh ngôn phải có tri thức mang tính phổ quát,
hay qui luật có thể đúng cho mọi thời đại. Những danh ngôn mà khi phát
biểu ra làm cho người nghe thấy có lí. Chẳng hạn như câu của Abraham
Lincoln, “No man has a good enough memory to be a successful liar”
(tạm dịch: không ai có trí nhớ tốt để trở thành một kẻ nói dối giỏi),
chúng ta thấy nó rất có lí. Chính quyền và giới chính trị gia có thể nói
dối với nhiều người một lần, nói dối với một người trong nhiều lần, nhưng
khó có thể nói dối với nhiều người trong nhiều lần. Cái có lí còn là trải nghiệm
cá nhân nữa. Ví dụ như đọc câu “Chữ tài liền với chữ tai một vần”
(Nguyễn Du) bất cứ ai trong chúng ta cũng thấy cái chân lí trong câu đó,
vì chúng ta hay thấy trong thực tế những người tài thường mắc nạn. (Tôi
nghĩ ngay đến những người như Trần Huỳnh Duy Thức, và do đó tôi thấy câu
đó nó … thấm).
- Tính quốc tế. Một danh
ngôn không chỉ mang tính địa phương, mà phải vượt qua quốc gia trở thành
quốc tế. Những câu nói trong bài diễn văn “I have a dream” không
chỉ liên quan đến nước Mĩ thời đó, mà còn trở nên chủ đề thảo luận trên
khắp thế giới về tình trạng kì thị chủng tộc. Chẳng hạn như ông Nelson
Mandela, ông bị giam tù ở Nam Phi, và trong thời gian đó ông rút ra nhiều
kinh nghiệm và chân lí mà sau này viết thành cuốn “Long Walk to Freedom“,
cuốn đó không chỉ áp dụng cho Nam Phi mà cho mọi người đấu tranh cho tự
do. Tôi nhớ hoài câu ông nói “For to be free is not merely to cast
off one’s chains, but to live in a way that respects and enhances the
freedom of others” (tạm dịch: tự do không chỉ có nghĩa là không còn
gông cùm, mà là sống một cuộc sống tôn trọng và xiển dương quyền tự do của
người khác). Câu đó không chỉ đúng ở Nam Phi mà còn đúng ở Việt Nam, và
khắp nơi trên thế giới. Ngược lại, một câu nói mang tính địa phương (như “Tôi
chỉ có một Đảng: Đảng Việt Nam“) thì khó có thể xem là danh ngôn được.
- Tính thẩm mĩ của ngôn
từ. Tôi nghĩ yếu tố này rất quan trọng, vì nó gây ấn tượng tốt ở người
đọc/nghe, mà còn làm tăng phẩm chất của nội hàm câu nói. Một trong những
câu gây ấn tượng trong tôi nhất, và tôi xem là danh ngôn là câu của Thiền
sư Vạn Hạnh “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”. Chỉ một câu ngắn những
chữ nghĩa và ví von đẹp mà đúc kết được một qui luật tự nhiên. Có khi
người ta làm cho câu chữ hay và mới bằng cách “đảo ngữ”. Chẳng hạn như
thay vì nói “Don’t ask …” thì Kennedy nói “Ask not …”
Phải nói đó là một sự hoán chuyển tài tình! Đảo ngữ có thể đem lại một sức
sống mới của một câu văn tầm thường. Một danh ngôn với ngôn ngữ đẹp phải
kể đến câu nói của Martin Luther King: “We must rise to the majestic
heights of meeting physical force with soul force“. Câu này tôi thấy
ngữ vựng tiếng Anh rất đẹp (dù có phần uyển ngữ) và cách cấu trúc câu văn
rất cân xứng, nhưng thú thật tôi không đủ khả năng tiếng Việt để dịch sao
cho nó thoát ý. Câu nói hàm ý rằng chúng ta phải nâng cao tinh thần để đối
phó với sức mạnh của bạo lực.
- Ngắn gọn và tương phản.
Tôi để ý thấy những câu danh ngôn thường là những câu văn ngắn gọn (như “I
am the captain of my soul” của Nelson Mandela), hay có tính tương phản và
đối sánh. Ví dụ như câu của kennedy “Forgive your enemies, but never
forget their names” (Hãy quên kẻ thù của chúng ta, nhưng đừng quên tên
của kẻ thù). Câu đầu thì chẳng có ý gì đáng kể, nhưng câu thứ hai làm
chúng ta phải suy nghiệm! Một câu khác của Nelson Mandela cũng mang tính
bán nghịch lí: “Do not judge me by my successes, judge me by how many
times I fell down and got back up again” (Đừng đánh giá tôi qua những
thành công, hãy đánh giá tôi qua số lần tôi tôi bị vấp ngã và gượng dậy).
Cái hay của câu này là trong câu đầu (“Đừng đánh giá tôi qua những thành
công”) có hiệu quả thu hút chú và câu khách, nhưng câu thứ hai thì làm cho
chúng ta phải suy nghĩ và tự an ủi mình vì tất cả chúng ta ai cũng có thất
bại trong đời.
Dùng những tiêu
chí trên để đánh giá, tôi chưa thấy có câu nào của các lãnh đạo Việt Nam xứng
đáng là danh ngôn cả. Những câu mà có lẽ rất nhiều bạn ở VN nghe hàng ngày suốt
60 năm qua như “Không có gì quí hơn độc lập và tự do” không thể nào là
danh ngôn được, cho dù được dịch sang tiếng Anh (“Nothing is more precious
than independence and liberty“), vì hàm lượng tri thức thấp, thiếu tri thức
phổ quát (thiếu “dân chủ”), nó mang tính quốc tế nhưng thiếu mĩ cảm. Có một câu
của ông cụ mà báo chí ca ngợi rất nhiều nhưng tôi chẳng thấy nó hay chỗ nào. Đó
là câu “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?” Dĩ nhiên, tôi hiểu câu đó và bối
cảnh ra đời của nó, nhưng vẫn chẳng có gì hay, vì không có hàm lượng tri thức,
không phổ quát, chữ nghĩa thì cũng bình thường. Người Tây phương hay nói câu đó
trong mỗi buổi meeting. Có những câu như lề phải lề trái và con cừu cũng gây ồn
ào một thời gian, nhưng tôi chẳng thấy nó có gì hay (thực ra câu đó là một danh
ngôn của người Đức — nếu tôi nhớ không lầm).
Nhưng công bằng
mà nói, tôi nghĩ ở Việt Nam các lãnh đạo rất khó có những phát biểu hay hay
danh ngôn. Tôi không nói đến trình độ học vấn và kiến thức của họ còn hạn chế;
tôi muốn nói đến một lí do xa hơn: đó là môi trường xã hội – chính trị. Lãnh
đạo Việt Nam là đảng viên đảng cộng sản, và cơ chế tổ chức trong đảng thì cũng
như tôn giáo. Trong cái tôn giáo đó, họ khó có thể nói cái gì ra ngoài giáo
điều là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Mà, giáo điều thì chẳng có cái gì mới,
hiếm có cái gì hay, và ngôn ngữ thì cũng rất chán vì giống như kinh kệ. Trong
cái môi trường bị gò bó về tư tưởng như thế, các lãnh đạo dù có thể rất tài
nhưng rất khó có thể sáng tạo được. Nếu họ nói ra cái ý gì mới thì có thể mâu
thuẫn với giáo điều của đảng và rất nguy hiểm cho “tính mạng chính trị” của họ,
nên cách an toàn nhất là cứ lặp lại những gì đã được nói đến trong quá khứ. Do
đó, các phát biểu của các lãnh đạo Việt Nam không có tính sáng tạo, thiếu hàm
lượng tri thức phổ quát, chữ nghĩa thì không đẹp, nên rất khó trở thành danh
ngôn.
———-
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét