Trần Văn Trạch em tôi
Con tôi Trần Quang Hải đã viết tiểu sử rất đầy đủ và chính xác về chú ba của Hải Tôi chỉ
thêm vài chi tiết về em tôi mà ít có người biết và hôm nay cũng lần đầu mới ghi
lại thành văn bản.
Tên của Trạch trong
gia đình là «Khê em»
Khi
Trạch mới sanh, cả nhà đều vui mừng. Ông nội tôi muốn đặt tên con cháu đều có
bộ Thủy nên cha tôi tên Triều là dòng nước, tôi tên Khê là khe suối, em tôi tên
Trạch là ao, đầm . Nhưng từ lúc lên một, mỗi khi trong nhà có ai gọi em
tôi : Trạch ơi ! là con cháu của bà cụ láng giềng trùng
tên, thấy khó chịu, nên qua xin ông nội tôi đặt tên khác cho chú bé Trạch, để
bà khỏi bị kêu réo tên bà. Cả nhà rất khó nghĩ, tên đã ghi trong sổ bộ
đời. Cậu Năm tôi, ông Nguyễn tri Khương, đến bàn với ông tôi, nhắc lại lịch sử
bên Trung quốc dưới triều nhà Tống có hai anh em ruột, văn hay chữ tốt, thi
cùng một khoá, đều đậu Tiến sĩ, và ra làm quan trong một triều. Trong
nước ai cũng quí tài của hai anh em nên gọi anh là Đại Tống, em là Tiểu Tống.
Nay muốn kiêng tên bà cụ láng giềng, cậu năm tôi đề nghị gọi tôi là Khê
Anh và Trạch là Khê Em. Ông nội tôi bằng lòng
và từ ngày đó, trong gia đình tôi và cả làng Vĩnh Kim, ai nấy đều gọi chúng tôi
bằng hai tên Khê anh và Khê em
Tuy
chúng tôi cách nhau 3 năm, chúng tôi không rời nhau, như anh em sinh
đôi. Tối đi ngủ, sáng thức dậy một lượt, cùng ăn lót lòng giống nhau, môt
gói bắp nấu, một gói xôi đậu hay xôi nếp than có dừa nạo muối mè. Mỗi buổi ăn,
ngồi gần nhau, đi tắm sông, tập đi xe đạp, học võ Thiếu Lâm với anh ba Thuận
con của câu năm Khương, cả khi đi tiểu, đi tiêu cũng đều cùng một
lúc.
Nghe chuyện đời xưa
Mỗi
tuần, cậu năm Khương rước chúng tôi vô ở chơi trong nhà câu năm cả ngày, từ
sáng đến tối, đêm ngủ lại, nghe cậu năm tôi thổi sáo, và thuật cho chúng tôi
nghe những điểm đáng nhớ trong thời thơ ấu của chúng tôi, hoặc thuật chuyện đời
xưa, chuyện Nhị thập tứ hiếu. Qua tiếng nói của cậu năm, chúng tôi
được thấy Khổng Tử gặp Hạng Thác, nghe tiếng sáo Trưong Lương làm tan
binh Hạng Võ, theo Quan Công quá ngũ quan, trảm lục tướng, qua
năm cửa ải chém đầu 6 tướng, làm anh em tôi đi ngang nhà nào có thờ Quan Công
là chúng tôi ngừng lại quay vào nhà bái tổ theo nghề võ, cả làng rất khen Khê
anh,Khê em biết kính «ông Bồn».
11 tuổi Trạch đã biềt ra câu đối.
Câu
năm lại dạy anh em tôi đối chữ, đối ý, đối câu. Đầu tiên dạy chúng tôi phải
biềt đối một chữ, bình đối với trắc, màu đối với màu, như vàng đối với đỏ hay
tím, trắng đối với đen, số đối với số, năm đối với bốn, bảy hay tám, danh từ
đối với danh từ, trời đối với đất, sông đối với núi, động từ đối động từ,
đi đối vối chạy, lên đối với xuống. Rồi đến 2 chữ như vàng khè đói với đỏ hoét,
trời biển đối với núi sông.
Cậu
năm lại dạy cho chúng tôi biết những câu đối Việt Nam trong đó có những cách
«chơi chữ», như câu
Ruồi
đậu mâm xôi, mâm xôi đậu
Kiến
bò dĩa thịt, dĩa thịt bò
Hay
«nói láy»,như «Ông mượn cháu, đi Giồng dứa , mua dừa gống về ươn mộng» «Ông
mượn , ươn mộng ; giồng dứa, dừa giống».
Đối
lại :
« Chồng
sai vợ, đi Chợ Thủ kêu chủ thợ về chày sông »
«Chồng
sai, chày sông, Chợ Thủ, chủ thợ »
Cậu
năm dạy khi người ta ra câu đối Đông Tây, mình có thể đối Nam Bắc. Một hôm cậu
năm ra câu đối :
«Cỡi
máy bay, bay vòng Đông Tây Nam Bắc» .
Không
ai đối được, cậu năm đối :
«Đi
tàu lặn, lặn mãn Xuân, Hạ, Thu Đông».
Cậu
năm lại ra một câu rất khó đối ;
«Thằng
đàng Thổ, nằm dưới đất, ăn thục địa »
Thổ là
đất, địa cũng là đất lại nằm dưới đất . Lẽ
tất nhiên không ai đối được. Chính cậu năm tìm ra câu đối :
«Chà
Châu giang, lội qua sông, hái bạc hà »
Giang là
sông, hà cũng là sông, lại lội qua sông. Thục
địa là một vị thuốc, bạc hà là một loại rau nhưng cũng là vị thuốc.
Năm
1934, Trạch mới được 11 tuổi ta, một hôm thấy con chó mực trong nhà làm đổ bình
mực liền nghĩ ra một câu đối và thưa với cậu Năm : « Cậu ơi !
Con mới ra câu đối để cậu đối lại cho con :
«Chó
mực làm đổ bình mực, mực đổ trên mình chó mực»
Cậu năm nói : «Cậu không đối liền được, hẹn con đến trưa nay cậu sẽ tìm
câu đối». Cậu ra vườn trồng bông. Vài giờ sau, cậu năm tươi cười gọi Trạch và
tôi đến để nghe câu đối :
«Gà
bông bươi ngã bụi bông, bông rơi trên cánh gà bông »
Anh
em chúng tôi vỗ tay hoan nghinh, nhưng cậu năm nói : « Đối ý thì hoàn
toàn, nhưng đối chữ còn chưa được. « … làm đổ bình mực »,
chữ đổ trắc mà cậu đối « làm ngã bụi bông
», chữ ngã cũng trắc, nhưng cậu tìm không ra chữ nào giọng bình. Chữ làm
đổ bình mực và mực lại đổ trên mình chó mực, hai chữ đổ cùng
âm mà khác nghĩa. Nhưng kể ra câu đối của con cũng khó đối lắm. Và cậu khen Khê
em mới 11 tuổi mà đã ra được câu đối mắc mỏ như vậy .
Mối tình
đầu của Trạch
Năm 1936 Trạch mới 13 tuổi và đã yêu một cô gái 12 tuổi, bạn của Ngọc Sương em
gái chúng tôi. Cô bé rất đẹp, cũng có cảm tình với Trạch. Ngày nào cô bé cũng
đến nhà chúng tôi để găp Ngọc Sương. Tình yêu rất ngây thơ, nhưng hai trẻ cũng
thích chuyện trò, ngồi gần nhau. Trẻ con không quan tâm, nhưng người lớn lại để
ý. Cô ba, người thay cha mẹ chúng tôi để nuôi chúng tôi, từ lúc tôi lên 10,
Trạch lên 7, lại rất tinh đời. Cô đến tìm cha mẹ cô bé đề nghị cho cô bé về quê
mẹ trong một thời gian. Khi cô bé không đến nhà như thường lệ, Trạch buồn dã
dượi trong mấy hôm liền. Trạch đến nhà cô bé để gặp hai người anh của cô cho đỡ
nhớ. Không ngờ người anh nhỏ, bằng tuổi với Trạch, có nghe lén cha mẹ và cô ba
bàn việc cho em gái về quê để cho Trạch không có dịp gặp cô em nữa. Trạch rất
buồn. Khi trở về nhà, lúc đó cô Ba đi vắng. Trạch bỗng nổi cơn giận dữ, bứt hết
dây đờn tranh, đờn tỳ của cô ba.
Hả cơn giận, Trạch bình tâm thấy dây đờn ngổn ngang, tôi lui cui lượm bỏ dây
hư, lấy dây mới và đang mắc từng dây một, nét mặt buồn. Trạch đến gần tôi
nói trong nước mắt ; «Em khổ quá anh hai ơi ! Lúc giận em
không còn suy nghĩ gì nữa. bây giờ em tỉnh hồn. Nhớ tới cô ba về rầy, em chịu
không nổi. Em lại làm cho anh hai cực, em giận em quá . Em đi khỏi
nhà anh hai ơi ! Cô ba có hỏi, anh hai nói em buồn quá bỏ nhà ra đi. Em
cũng không biết sẽ đi đâu. Em sẽ không trở về. Anh hai đừng đi tìm em, vô ích..»
Tôi khuyên can, nhưng Trạch đã nhứt quyết thì không ai cản ngăn em được. Nhìn
theo em đi bộ xuống chợ cá gần bến xe đò đi Mỹ tho. Rồi cô ba về. Thấy tôi vừa
mắc dây đờn, vừa lên dây mà nước mắt lưng tròng. Cô ba hỏi : «Tại sao dây
đờn đứt hết vậy con?».
«Thưa
cô ba, Khê em buồn gì không biết, vừa bứt từng sợi dây đờn vừa khóc. Rồi nhờ
con xin lỗi cô ba, và ra đi, nói sẽ không trở về nhà nữa. »
«Con
phải đi kiếm em, bảo nó trở về. Có chuyện gì buồn nói cho cô biết. Cô sẽ không
rầy chuyện nó bứt dây đờn đâu. Con có biết em con đi đâu không?»
«Dạ
thưa không. Nhưng thấy em đi đến phía xe đò đi Mỹ tho, chắc nó đi theo xe xuống
Mỹ. Nó có quen với anh «lơ» chắc họ cho nó đi khỏi t
Nghe
theo lời cô, tôi đi xe đạp xuống Mỹ tho, vì nếu đợi xe đò phải sáng hôm sau mới
có chuyến đi, đêm nay em sẽ ngủ ở đâu? Tôi đạp xe mà lòng buồn vô hạn. Chưa bao
giờ anh em xa nhau một bước. Nay em định bỏ gia đình êm ấm, xa người anh mà em
triếu không thua gì con triếu mẹ, tức là em đang khổ lắm. Tôi suy nghĩ nếu minh
buồn như em, mình sẽ đi đâu ? Chắc mình sẽ xuống mé sông nhìn nước chảy,
vì nước chảy sẽ cuốn trôi phiền muộn. Tại Mỹ tho có một chỗ tại bờ sông mà lúc
phải đi Tam bình qua ở đậu nhà cô năm tôi để học mấy lớp Sơ học, vì nhà nghèo
cô ba tôi không đủ sức nuôi tôi học trường tỉnh Mỹ tho, anh em tôi thích ngồi
bờ sông Tỉền giang, nhìn qua bên mặt có nóc đỏ nhà Cercle của người Pháp, nhìn
phía trái có rặng cây dương xanh biếc. Hôm nay, chắc em tôi sẽ đến đó. Suy nghĩ
như vậy, và do tình thương em dẫn dắt, tôi đạp xe một mạch đến bờ sông. Đến chỗ
tôi đoán, tôi rât mừng, vì thấy bóng em ngồi trên thềm gạch, chống tay trên
cằm. Tôi đến nhẹ sau lưng em và gọi nhỏ : «Khê em ơi !Anh hai
đi kiếm em về. Cô sẽ không rầy la đâu. Anh hai bảo đảm với em.»
«Sao
anh hai biết em ở đây mà đến tìm em »
«Tình
thương đã dẫn anh hai.»
Hai
anh em ôm nhau không nói gì cứ để cho nước mắt tha hồ tuôn.
Nghe lời tôi khuyên, Trạch chịu về nhà và xin lỗi cô ba. Tôi chở em tôi bằng xe
đạp. Từ Mỹ tho về làng Vĩnh Kim, 15 cây số đường làng, hôm đó trời mưa xối xả.
Hai anh em ướt cả mình mẩy, nhưng lòng tôi vẫn thấy vui ấm vì anh em tôi không
vì lẽ gì phải xa nhau.
Trạch
thay anh em tôi báo hiếu.
Tuy việc bứt dây đờn tranh xảy ra lúc Trạch còn nhỏ tuổi, mà mãi sau này, mỗi
lần nhắc lại Trạch lắc đầu như tự trách mình, không biết ơn người cô đã hy sinh
cả cuộc đời để nuôi ba anh em chúng tôi nên người, vì mối tình của mình đã hành
động không suy nghĩ, có thể làm đau lòng người cô mà chúng tôi thương kính như
cha như mẹ. Nên năm 1944, khi cô tôi đau nặng, bịnh lao đã tới thời kỳ thứ ba,
trắc nghiệm trong đàm đã thấy có vi trùng Koch, cô tôi có một người giúp viêc
rất trung thành, tình nguyện nuôi cô tôi lúc đau ốm. Nhưng Trạch, sau khi thất
bại trong việc làm ăn trên Sài gòn, nhứt định bỏ cả công việc về làng Vĩnh Kim,
vừa tìm việc làm ăn hùn hiêp với một người anh họ để làm lò chén, vừa để mỗi
ngày đạp xe lôi đưa cô tôi đi hứng gió ở ngả ba chim chim, cách nhà cô tôi đang
ở hơn 1 cây số. Trạch thuê đóng một chiếc xe lôi có ghế nệm, mỗi ngày khi mặt
trời xế bóng về chiều, Trạch đạp xe đạp, đưa cô tôi đi hứng gió. Năm đó, tôi
đang học Y tại Hà nội, vì nhiều lý do: sinh viên theo phong trào «xếp bút
nghiên», trường Đại học đóng cửa trong hai tháng, tôi bị đau rét rừng nặng phải
nghỉ học. Miền Bắc thiếu gạo, nhiều nơi bắt đầu có nạn đói. Tôi về lập với bạn
Huỳnh văn Tiểng một gánh hát sinh viên đi hát trong lục tỉnh, lấy tiền thâu
được, mua gạo gởi ra ngoài Bắc cứu đói. Rồi tôi lại lo việc con đầu lòng của
tôi sắp ra đời, phải đi dạy học tư tại Sài gòn để nuôi gia đình. Em gái tôi học
nội trú trong trường áo tím Nữ học đường, em Trạch đã thay cho ba anh em chúng
tôi báo hiếu với cô ba chúng tôi ..
Trạch, bị bắt tại
Cần thơ vì có vợ ngưòi Pháp.
…..Anh
em lại xa nhau, tôi đi gặp bạn Huỳnh Văn Tiểng tại Chợ Thiên Hộ, và được
Ủy ban Kháng chiến Nam bộ cử tôi làm «Nhạc trưởng quân đội Nam bộ», và các
bạn tôi đùa gọi tôi là «Tổng tư lịnh Kèn».
Trạch lúc đó có dịp xuống Mỹ tho và gặp lại gia đình của một người Pháp
sanh ở đảo Corse. Ông nầy thương Trạch từ hồi Trạch còn là học sinh trường
Trung học Mỹ tho, nên lúc Nhựt đảo chánh năm 1945, ông bị bắt lên tập
trung tại Sài gòn. Trước khi đi lên trại tập trung, ông gởi gấm gia đình nhờ
Trạch trông nom. Ông có một cô gái lớn rất đẹp, và trai tài gặp gái sắc, như
sắt gặp đá nam châm. Và cuộc tình đó dẫn đến sự ra đời của em bé A. Tiếp
theo là phong trào Việt Minh nổi dậy. Lúc đó ai có quần áo 3 màu xanh trắng đỏ
thường bị gán cho danh từ «Việt gian». Trạch có vợ đầm, có đứa con lai, cảm
thấy mình bị đe doạ. Nghe nói tôi ở trong vùng kháng chiến miền Tây, nên Trạch
đi liều, gặp Thanh niên tiền phong hay Thanh niên cứu quốc đều nói đi xuống Bạc
liêu tìm «anh hai tôi» trong vùng kháng chiến. Lúc đó Trạch vừa mới ra trường
Trung học Mỹ tho. Chưa đi hát, không ai biết tên, nên bị bắt mấy lần nhưng được
thả ra. Đến Cần thơ, hai vợ chồng bị nhốt để đợi ủy ban kháng chiến xét xử. Rất
may cho Trạch, lúc đó có cậu sáu là một người quen thân trong gia đình
đang làm Thanh tra chánh trị. Cậu sáu nghe nói có trường hợp một thanh
niên có vợ Pháp mà muốn đi xuống tận Năm Căn tìm anh là Trần Văn Khê, cậu
sáu liền lãnh phần giải quyết trường hợp đó. Cậu khuyên vợ Trạch làm giấy từ bỏ
quốc tịch Pháp, và cậu cấp cho Trạch một giấy đi đường đến tỉnh Bạc liêu tìm
tôi.
Trạch,
binh nhì trong Đội quân nhạc Nam bộ. Anh em hội ngộ.
Lúc đó tôi phải đưa đội quân nhạc đến
vùng Cái nước, vì cả Ban Quân Y phải lui về vùng Lẫm Biện Tú, không có tiền lẻ
để mua thức ăn trong vùng nhà quê. Ban quân y chỉ nhận được giấy 500
đồng khó lưu dụng ở thôn quê. Mỗi ngày cả đoàn quân nhạc chúng tôi
tổ chức những đêm hát có ca, nhạc cách mạng, có dân ca ba miền, góp được tiền lẻ,
giữ 30 phần trăm cho đội, 70 phần trăm để giúp trạm Y tế Lẫm Biện Tú mua thịt
cá, rau cải cho các bịnh nhân.
Một hôm, các anh trong ủy ban kháng chiến đến gặp tôi và cho biết rằng tôi có
người em, có vợ Pháp, và con còn nhỏ, từ Hậu giang đến tìm tôi, rồi mời tôi
theo anh ra trụ sở của Ủy ban. Vừa gặp tôi, Trạch chảy nước mắt, chạy lại ôm
tôi, hai anh em không nói tiếng nào. Các anh trong ủy ban, đưa giấy giới thiệu
của Thanh tra Chánh trị, tôi đọc qua rồi nói với các anh : «Thanh
Tra chánh trị mà anh em tôi trong gia đình gọi là cậu Sáu đã gởi giấy giới
thiệu. Dầu cho không có người giới thiệu mà nếu em tôi đến tìm
tôi, tôi cũng sẵn sàng bảo bọc em tôi và gia đình.. Tôi xin làm tờ bảo lãnh cho
em tôi. Từ giờ nầy, em tôi được vào Đội quân nhạc và nếu em tôi có làm chi sai
lầm, tôi xin chịu trách nhiệm trước ủy ban.».
Trong thời gian mấy tháng, anh em sống lại cuộc đời thuở nhỏ, cùng ăn một mâm,
cùng ngủ dưới một mái nhà, khi đi từ nhà đến bịnh viên, chống xuồng qua
các rạch các kinh, Trạch khỏi sợ bị bắt như một «Việt gian » vì có
vợ Pháp. Tôi vui vì trong cảnh xa nhà xa làng Vĩnh Kim, được chung sống với em
tôi và gia đinh của em. Ai có ngờ người nghệ sĩ quái kiệt đã có lúc vì tình
phải mang tiếng «Việt gian», khi ngộ biến đã trong mấy tháng trời làm
«binh nhì» trong đội Quân nhạc Nam bộ ?
Rồi
anh em lại xa nhau.
Nhưng
cuộc hôi ngộ nào cũng đi đến lúc chia tay. Khi tất cả các cơ sở thuộc Nam bộ
đều đi ra Bắc hay chạy theo căn cứ quân sự. Chúng tôi phải trở về Cần thơ, nơi
anh hai con cậu năm tôi có một xưởng làm nước mắm mang hiệu Quê Hương. Trạch và
gia đinh được cậu năm tôi đùm bọc, tôi đi về Lộc Ninh tá túc nhà nhạc mẫu tôi,
bà ngoại của mấy cháu.
Năm 1949 tôi sang Pháp, Trạch làm việc tại Nhà hàng Théophile. Anh em lại
xa nhau. Tôi nghiên cứu cổ nhạc. Em tôi nổi tiếng nhờ tân nhạc và được
danh hiệu quái kiệt trong làng nghệ sĩ..
Khi nghiên cứu âm nhạc truyền thống và soạn luận án Tấn sĩ tôi được vào Trung
tâm nghiên cứu khoa học nhưng vì muốn xây dựng một Trung tâm học nhạc Đông
phương để dạy nhạc châu Á theo phong cách truyền khẩu truyền ngón, nên tôi chỉ
làm việc bán thời gian cho Trung tâm nghiên cứu khoa học, còn phân nửa thời
gian thì làm Giám đốc Trung tâm nghiên cứu âm nhạc Đông phương và làm Cố vân
nghệ thuật cho anh Ph.V M. Giám đốc Nhà hàng La Table du Mandarin. Tôi bày ra
trò chơi L’Election du Mandarin (Cuộc bầu cử Thượng quan
của Nhà hàng) được diễn gần 20 năm mỗi buổi chiều. Lúc đó Bích Chiêu, Bạch Yến,
Thiên Hương được hát tại La Table du Mandarin là do sau khi tôi nghe và
bằng lòng đề nghị cho Anh Ph.V. M ký hợp đồng. Khi Trạch đến hát tại La Table du
Mandarin, tôi đang giao việc giới thiệu chương trình bầu cử Thượng quan cho
Nhạc sĩ Đan Trường. Nhưng anh em thỉnh thoảng gặp nhau tại Paris.
Trạch
đến thường trú tại Pháp.
Đến năm 1977, ban giám đốc nhà hàng La Table du Mandarin gọi điện thoại báo tin
cho tôi biết Trạch mới từ Việt Nam sang Pháp và muốn gặp tôi. Lúc đó tôi đã
không còn làm Cố vấn chương trình nghệ thuật của Hiệu La Tabe du Mandarin, nên
không có thể giúp Trạch tìm việc làm tại đây. Trạch phải đi nơi khác. Nhưng anh
em lại có dịp cuối tuần về nhà tôi, anh em đờn hát thâu thanh tại nhà tôi, hay
tại nhà nữ Bác Sĩ J. Ph.
Tuy cùng sống trên đất Pháp, vì công ciệc khàc nhau, tôi đang “bôn ba bốn
biển năm châu“, Trạch đang tìm cách sanh sống bằng thương mãi, anh em gặp nhau
trong những ngày Tết Việt Nam, hay những ngày họp mặt gia đình tại nhà Trạch.
Mỗi khi Trạch có việc buồn thường hay gọi điện thoại cho tôi để đến gặp tôi,
Trạch thèm ca Vọng cổ và muốn tôi đờn tranh phụ họa cho em.
Phút
cuối cùng
Đến khi tôi hay tin em tôi bị đau nặng nằm tại bịnh viện, tôi thường vào thăm
và Trạch một hôm “trốỉ” với tôi:“ Anh hai sắp đi Việt Nam theo chương
trình làm viễc cho Trung tâm nghiên cứu khioa học Pháp. Em chỉ ước ao một đều.
Khi em phải từ giã cõi đời, em muốn có anh hai đua em đến nơi an nghĩ cuối cùng “
. Tôi hứa với em;“ Dầu cho anh hai đi đâu trên trái đât nầy, khi biết
tin em vĩnh viễn anh hai sẽ trở lại Pháp để lo việc đưa em về nơi an nghỉ cuối
cùng. Anh hai sắp đi xa. Anh hai nhắc cho em nghe một câu phỏng theo ý
của một nhà văn mà anh hai không nhớ tên:Ngày em ra đời, em khóc mà mọi người
quanh nôi em cười vui. Ngày em phải lìa đời, khi mọi người khóc thưong tiếc em,
thì em sẽ mỉn cười ra đi, vì em đã làm xong tất cả nhiệm vụ của em trên đời.“
Trạch mìm cười siết chặt tay tôi và nói:“ Anh
hai yên lòng đi về nước làm việc. Mong rằng sẽ gặp lại anh hai khi anh hai trở
lại Pháp. Nếu có mệnh hệ nào, em sẽ mỉm cười ra đi. Và anh hai sẽ về để đưa em
về nơi an nghỉ cuối cùng.“
Lần đó là lần cuối cùng tôi gặp em tôi khi em
còn sống. Và câu nói đó là câu cuối cùng mà tai tôi nghe tiếng em tôi nói. Và
như đã hứa, tôi đã trở vềtừ Việt Nam và làm chủ tang cho đám táng của
Trần Văn Trạch, em Khê em của tôi.
Trần
Văn Khê
Kiến
thiết quốc gia
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà
Giúp đồng bào ta
Xây đắp muôn người
Được nên cửa nhà
Tô điểm giang
san
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng
Qua bao lầm than
Ta thề kiến thiết
Trong giấc mộng vàng
Triệu phú đến
nơi
Năm muời đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi
Năm muời đồng thôi
Mua lấy xe nhà
Giàu sang mấy hồi
Kiến thiết quốc
gia
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam
Giúp đồng bào ta
Ấy là thiên chức
Của người Việt Nam
Mua số mau
lên
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số… gần… đến…
Xổ số gần đến
Mua số mau lên
Xổ số… gần… đến…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét