Phùng Quán- hôm nay là ngày giỗ ông.
Phùng Quán (1932-1995), ông quê ở Thuỷ Dương, Hương Thuỷ, tp Huế, đã có một “ Tuổi thơ dữ dội”, 2 tuổi mồ côi cha, 13 tuổi gia nhập Vệ quốc đoàn, 16 tuổi cầm súng đánh Pháp, 21-22 tuổi viết “Vượt Côn đảo” nổi tiếng từ những người tù vượt ngục kể lại và nghiễm nhiên được gọi là nhà văn; ông thực sự là một nhân tài Thiên phú. Năm 2007, ông được trao tặng “Giải thưởng Nhà Nước về Văn học- Nghệ thuật”, cùng với Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt.
Biết được sở trường của mình cùng với tính cách cương trực, kiên định, ông lập ngôn“ Tôi muốn làm nhà văn chân thật/ Chân thật trọn đời/ Ðường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi / Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã…”… “Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/ Dù ai cầm dao dọa giế/ Cũng không nói ghét thành yêu” (Lời mẹ dặn- Tuần báo Văn số 4-1957)
Là một người lính, chứng kiến thực tế cuộc sống xã hội miền
bắc sau 1954, ông đã “… đúc thơ thành đạn/ Bắn vào tim những kẻ làm càn/ Những
con người đã tiêu máu của dân/ Như tiêu giấy bạc giả!” Và viết bài thơ Chống
tham ô lãng phí, có những câu kết: “Trung ương Đảng ơi!/ Lũ chuột mặt người
chưa hết/Đảng lập đội quân trừ diệt/ - Có tôi! Đi trong hàng ngũ tiên phong”, đăng
trên Giai phẩm mùa thu tập II (10/1956),
thế là bị coi “nói xấu, bôi nhọ chế độ” và ông dính án Nhân Văn khắc nghiệt
cùng với Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Hoàng Cầm và một số văn nghệ sĩ
tên tuổi khác.
(Sau vụ Nhân văn, Phùng Quán bị kỷ luật, ra
ngoài biên chế nhà nước, bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, rời tạp chí Văn
nghệ Quân đội, được Hội Nhà văn trợ cấp 27 đồng/ tháng (lương tối thiểu
công chức lúc đó là 36 đồng), đi lao động cải tạo tại các nông trường, công trường
và địa phương ở Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hóa, Việt Trì... Năm 1964, sau khi
hoàn thành chương trình “lao động cải tạo”, Phùng Quán được chuyển về công tác
tại Phòng Tuyên truyền (Bộ Thủy lợi), Vụ Văn hóa Quần chúng (Bộ Văn hóa), Nhà
Văn hóa Trung ương. Ở Bộ Văn hóa, nhiều năm anh được phân công đi tăng gia sản
xuất tại rừng núi Bắc Thái. Về hưu 1985(sic) (https://trieuxuan.vn/Phung-Quan/)
Cái án không án 30 năm (1957-1987) đã dập nát đời ông, từ một
nhà văn mới nhận giải thường trở thành “tứ cố vô thân”, sống lây lất trên bờ Hồ
Tây với “ cá trộm-văn chui-rượu chịu”. (Để tồn tại, ông phải câu trộm cá đổi gạo
ăn và nuôi con, viết văn phải nhờ người khác đứng tên mới đăng báo hay in sách
được và mua rượu chịu chờ đến ngày có ít tiền còm nhuận bút!) Nhưng, ông không
trách đời trách người, vẫn say sưa viết, viết như một người phu chữ, viết như một
phận sự; 30 năm gần 70 đầu sách, báo và thú vị thay Chuyện con cò vàng trong
cổ tích đoạt Giải Nhất tại Liên Xô, trong cuộc thi viết nhân kỷ niệm
100 năm ngày sinh Lê Nin, với một chiếc xe đạp (năm 1970), tất nhiên là đứng
tên người khác.
Là một “ hạt giống đỏ”, [(cha ông bị từng bị tù và Pháp giết,
2 người chú đều là cán bộ cách mạng cao cấp đương chức, đặc biệt, ông gọi Tố Hữu
bằng cậu ruột (mẹ ông và Tố Hữu là anh em cùng cha khác mẹ)], ông dư sức “công
thần”, chỉ cần viết cái đơn vài dòng “sám hối”, là được lại tất cả, có khi còn
hơn, nhưng không, ông không bao giờ làm điều đó. Một số người cùng hệ ông chấp
nhận làm “Con ngựa già của chúa Trịnh”(1) để được ăn “thóc trộn mật ong”, êm
mông ấm cật một đời!
Là con người, trong hoàn cảnh cay cực đến cùng tận như thế,
ông làm sao tránh khỏi những khoảnh khắc chạnh lòng, ông viết “Có những phút
sao mà kinh hãi thế /Đến cả Thơ cũng không ấm được nỗi lòng /Đến
cả rượu cũng không vơi đắng cay, phiền muộn /Và cả mắt người yêu không dịu
bớt cô đơn”; rồi ông tự nhắc mình “Chén đắng cay rót rồi nên uống cạn/
Không được sẻ cho ai cũng không thể để dành” và “vịn câu thơ mà đứng dậy” trong “những phút
ngã lòng” như thế. “ Có những phút ngã lòng/ Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”, vịn
câu thơ là vịn vào sức mạnh nội tại chính mình, ông tiếp "Nhưng thơ đã
cứu tôi, giúp tôi đứng vững, dạy tôi dũng khí bền gan"; và tất nhiên
ông sẵn sàng đánh đổi, "Tôi đã trả giá cho Thơ bằng 30 năm tốt đẹp của
đời mình. Từ năm 24 tuổi đến năm 56 tuổi, cơ chế quan liêu đã đánh trả tôi đến
chí mạng. Tước đoạt của tôi quyền lao động thiêng liêng: sáng tác, xuất bản,
quyền được sinh sống cho ra một con người. Và dìm ngập tôi trong bùn nhơ, lăng
nhục trước công luận...." (Trăng Hoàng cung). Một nhân cách sống thật
đáng ngưỡng mộ!
Nói đến ông mà không nhắc Trăng Hoàng Cung là một thiếu sót lớn, ông viết Trăng Hoàng cung vào khoảng 1984-1985, khi lần đầu về lại Huế sau bao năm xa cách; sách này, ông viết không theo một thể loại nào cả, gọi là thơ văn xuôi hay thơ tự do hay tuỳ bút, hay gọi như ông là “ xôi đỗ” đều được. Nhà xuất bản Thanh Văn (1993), gọi Trăng Hoàng Cung là tiểu thuyết tình 13 chương, sách không dài, đọc chừng 30-45 phút, nhưng dư âm là nỗi niềm day dứt về chế độ, về thơ và tình yêu đời ông. Chế độ được ẩn dụ là đêm Trăng thu bàng bạc trong Hoàng cung Đại nội. Qua thực tế ông biết “Trăng là một nhà bày đặt thiên tài/ Lều tranh bày đặt thành cung điện /Vườn hoang thành vườn Thượng Uyển /Vũng nước tù bày đặt thành hồ sen”…” “Trăng hoàng cung đêm nay ơi!/ Trăng nhân hậu/ Trăng thiên tài…/ Cảm ơn Trăng thương tôi mà bày đặt/ Nhưng cái tuổi tin vào cổ tích/ Tôi đã qua rồi…” Ông đã thấy đã nghe đã trải, sao có thể tin vào những gì như cổ tích được! Độc đáo, thâm thuý ở chỗ ông đã khéo lồng ghép nàng thơ và “ Trăng” thành một để nói lời chia tay khi biết rõ con người thật của nàng, câu “Trăng Hoàng Cung em chỉ tặng riêng anh!...” là giả dối; chàng đã mất hết niềm tin vào lý tưởng vào tình yêu chân thật của mình, “Tôi khóc niềm tin yêu nát tan /Tôi khóc ngai vàng mộng tưởng /Tôi khóc Trăng Hoàng Cung bị lấm bẩn /Tôi khóc không biết lấy gì để gột sạch trăng…”. Và cuối cùng dấu chấm hết cho một cuộc tình mộng tưởng cũng đến “ Tôi ngồi lặng nhìn em, cổ cháy khát cơn thơ/ môi rát bỏng những lời giã biệt”. Những câu thơ đau đáu một nỗi niềm. Thương ông!
![]() |
Phùng Quán và Hà Khánh Linh |
Nàng thơ trong Trăng
Hoàng Cung là nhà văn Hà Khánh Linh (tên thật Nguyễn Khoa Như Ý, em ruột nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm) ngoài đời. Ông yêu nàng ngay lần gặp đầu tiên, “ Giữa
thành phố quê hương/ Bất ngờ tôi gặp em…” và “Từ khi tôi biết em/ Tôi không
còn được ngủ trọn đêm/ Cứ nửa đêm là tôi thức/ Có chim gì mỏ rất sắc/ Nó đậu
trong tóc tôi/ Nó mổ vừng - trán – trái – thơ chín mõm/ Tôi bàng hoàng thấp thỏm/
Sợ trái – thơ rụng trước bình minh/ Tôi vùng dậy/ Đốt đèn/ Tôi hát…” (Trái
thơ-Trăng Hoàng Cung)); chưa hết, chàng tiếp “Tôi uống thơ từ đôi mắt em/
Tôi vục môi uống không kịp thở/ Cảm tạ em tôi đã hồi sinh!..”, dù biết… “
Em có con phải nuôi/ Có chồng phải bỏ”. Lúc đó chàng u-60, lửa tình vẫn ngùn ngụt
cháy, đúng “tình yêu không có tuổi bao giờ!”(VNT),
Mối tình trong Trăng Hoàng Cung là tình đơn phương thống khổ,
chàng bị hắt hủi, bị từ chối của nàng thơ, của cuộc đời, “Thi sĩ- tôi cô đơn/
Giữa đời- tôi lạc lõng”, đó là những gì còn lưu lại sau khi đọc Trăng Hoàng
Cung.
Cảm nhận non nớt của tôi, thơ ông trước và sau “lâm nạn Nhân Văn”, “hàm lượng thơ” chưa nhiều; khi viết Trăng Hoàng Cung, Phùng quán, đã nâng thơ mình lên một tầm cao mới, đằm thắm, mạnh mẽ và có phần siêu thực hơn, như: “Từ chất liệu gì mà Trăng bày đặt ra em/ Một vùng tóc như một vùng biển tối/ Vừng mắt em thăm thẳm tia nhìn/ Những ngón tay ngón chân có mùi hoa đại/ Cái cổ trần như rong dưới đáy sông Hương”. Chương 13, kết thúc Trăng Hoàng Cung ông viết: “ Trái tim tôi như trái cây bị dập nát/ Rụng xuống từ cành cao/ Tình tuyệt vọng là ngọn sào/ Chọc cho trái cây rụng xuống/ Trái cây rụng, vẫn mơ giấc mơ hoang tưởng/ May ra được gót chân em giẫm nát/ Để trước khi tan vào bụi đất/ Còn được hôn gót chân yêu…” …, “Tôi yêu em. Mối tình đầu cũng là mối tình cuối của tôi. Tôi đã rứt trái tim khỏi lồng ngực dâng hiến cho em như một tông đồ dâng hiến mạng sống của mình cho Chúa…”( Tôi yêu). Viết về tình yêu như thế chắc chỉ được vài người.
Cả đời phải uống rượu Khổ Sâm, nên lá gan xơ và “trái tim
thơ thấm mệt” của ông đã ngừng hẳn vào chiều 22/1/1995. Ông ra đi nhẹ nhàng,
thanh thản, trong sạch, không vướng lợi danh; một đời chỉ biết viết trên “giấy
có kẻ dòng” nên thơ văn ông cũng như đời ông luôn ngay thẳng! “ Chống tham ô lãng phí” bài thơ đã đưa ông vào vòng lao
lý, dù đã qua 69 năm (1956-2025) vẫn còn nguyên vẹn tính thời sự; quốc nạn này
do đâu? Đất nước ơi! Đất nước ơi! Ông đi, để lại cho đời “Lời Mẹ dặn”, nhắc
nhỡ những người sau sống sao cho chân thật, một mãnh “Trăng Hoàng Cung” vằng vặc
góc trời Thơ Việt.
Nàng thơ trong Trăng Hoàng Cung, mấy năm sau có viết: “ Anh
lịm tắt giũa mùa đông Hà Nội/ Bỏ lại em, bỏ lại Trăng Hoàng Cung”…,… “Cuộc chơi
có lúc phải tàn/ Trăng thu vàng úa trên sân Đại Triều/ Bài thơ xưng tụng tình
yêu/ Tạc vào vách dựng phù điêu mây trời/ Hoàng cung lạnh buốt anh ơi/ Dấu xưa
rêu phủ/ Nghẹn lời tình trăng” (Hoang tưởng- Hà Khánh Linh); những câu thơ lấp
lững, không biết có an ủi chút nào người nằm dưới mộ?
Cuối cùng Quê hương đã nhận ra “Trái tim thơ trong sạch và
gương mặt thơ bi thiết” của ông, tên ông đã thành tên đất, một con đường và một
ngôi trường ở quê ông đã lấy tên ông.
Tôi, thuộc hàng con cháu, quen
việc khám bệnh, kê toa; chỉ biết ông qua sách báo và google, ngưỡng mộ nhân
cách sống và yêu thích thơ ông. Nay, là ngày giỗ thứ 30, mất lâu quá, thế hệ
sau này chắc ít người biết đến ông; thắp hương ông không ai ngoài con cháu; tôi
mạo muội viết vài dòng, như một nén tâm nhang, thắp cho ông. Có vậy thôi.
(1) Tên
một truyện ngắn của Phùng Cung, viết 10/1956.
(ảnh lấy trên mạng, xin cáo lỗi và lượng thứ)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét