Cuộc chiến không cân sức giữa học giả Việt Nam
và Trung Quốc”
Đoan Trang
Bài viết dưới đây của tôi, “Cuộc chiến không cân sức giữa học giả Việt Nam và Trung Quốc”, được đăng tải trên Tuần Việt Nam
vào ngày 16/3/2009, một ngày
trước cuộc hội thảo quốc gia đầu tiên về tranh chấp chủ quyền trên
Biển Đông.
Hơn 5 năm đã trôi qua. “Cuộc chiến” vẫn không
cân sức. Sự xuất hiện những gương mặt mới, những nghiên cứu mới bên phía Việt Nam , vẫn hoàn
toàn là các nỗ lực cá nhân của những người Việt còn quan tâm đến chủ quyền đất nước. 5 năm
qua, giới truyền thông vừa viết bài vừa nghe
ngóng, đoán ý lãnh đạo, thấy “bật đèn
xanh” thì dấn tới, thấy “không
ổn” thì im bặt. Dư luận viên vẫn canh từng
diễn đàn, từng trang FB, blog chính trị, hối hả lao vào định hướng mỗi khi thấy có ý kiến nào có
vẻ bất lợi cho chính quyền. Thỉnh thoảng, lại thấy một đồng chí
cán bộ cao cấp nào đấy, kiểu như Đại tá-PGS-TS-NGƯT Trần Đăng Thanh, được mời đi “nói chuyện chính trị” tại những “Đảng ủy khối, lãnh
đạo Đảng,
Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh
niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội” về Biển Đông
và quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, huấn thị rằng “ta” thế này, “bạn” thế kia…
Để rồi tới hôm
nay thì báo chí được bật đèn xanh, phỏng vấn, viết bài, đưa tin rõ náo nhiệt, được tố cáo
Trung Quốc “lập luận vô
lý”, “bất nhất”, “lấy thịt đè người”, “vu
cáo” cái lọ cái chai… Thể nào cũng có đồng chí
cán bộ nào đó đã và đang chém tay vào
không khí mà nói rằng “ta làm truyền thông
chưa đủ mạnh cho thế giới biết chính
nghĩa của ta”, rồi thì “cần đề nghị đẩy mạnh truyền thông bằng tiếng Anh ra cộng đồng quốc tế”, v.v.
Đúng là đi theo đường lối của Đảng thì đến con rắn cũng
phải gãy xương sống.
Trong khi đó, bao nhiêu
năm qua, có nhiều học giả, nhà
khoa học, ở trong
và ngoài nước, có hoặc không có chuyên môn liên quan, vẫn thầm lặng nghiên cứu về Biển Đông,
vượt qua những khó khăn, cực nhọc về điều kiện vật chất và
tinh thần, vượt qua sự dò xét,
nghi ngờ của các đồng chí an ninh rỗi việc, vượt qua cả muôn vàn ức chế đời thường. Tất cả đều đã lao
vào nghiên cứu, lặng lẽ và âm
thầm, chỉ với mục đích “vì chủ quyền của Việt Nam”, “vì công lý và hòa bình trên Biển Đông”… Không được một xu trợ cấp của Nhà nước (tất nhiên rồi),
không được hỏi một lời, không được đếm xỉa đến trong mọi sự kiện ngoại giao, mọi quyết định ngoại giao; không những thế còn thường xuyên
bị an ninh hạch sách, quấy rối.
Hỏi ai mới đã và
đang liên tục lợi dụng lòng
yêu nước của họ,
của người dân Việt Nam ?
CUỘC
CHIẾN KHÔNG CÂN SỨC GIỮA HỌC GIẢ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
Trong
đàm phán lãnh hải với Trung Quốc, nếu coi việc nghiên cứu và đưa ra các bằng
chứng để xác lập chủ quyền là một mặt trận, thì đã và đang có một cuộc chiến
không cân sức giữa giới nghiên cứu của hai nước, với phần thua thiệt thuộc về
các học giả Việt Nam. Sự thua thiệt thể hiện rõ trên các mặt: số lượng học giả,
số lượng và diện phổ biến của công trình nghiên cứu, sự hỗ trợ từ phía Nhà
nước, sự tham gia của tư nhân…
Để cất
lên tiếng nói khẳng định chủ quyền
Ngày nay,
tất cả các học giả về quan hệ quốc tế đều khẳng định rằng: Thời hiện đại, để
chiến thắng trong những cuộc đấu tranh phức tạp như tranh chấp chủ quyền, điều
kiện cốt yếu là sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chứ không đơn thuần là ưu thế
về quân sự. Việc quốc tế hóa vấn đề lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa,
do đó, là điều Việt Nam
không thể không làm. Việc này mở đầu bằng quá trình đưa các quan điểm của phía
Việt Nam
ra trường quốc tế.
Có ba kênh
chính để đưa quan điểm của Việt Nam
ra quốc tế.
Thứ nhất
là thông qua các tuyên bố ngoại giao, như chúng ta vẫn thường thấy phát ngôn
viên của Bộ Ngoại giao trả lời báo giới: "Việt Nam
có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".
Thứ hai
là thông qua các tạp chí khoa học quốc tế, các diễn đàn thế giới. Sự xuất hiện
những bài viết khoa học, công trình nghiên cứu của phía Việt Nam trên các tạp
chí khoa học đầu ngành của thế giới về lịch sử, địa lý, hàng hải, công pháp
quốc tế… sẽ cực kỳ có sức nặng trong việc tranh biện.
Thứ ba là
thông qua các nỗ lực ngoại giao và truyền thông như ra sách trắng, tổ chức hội
thảo quốc tế, giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài, v.v…
Trung
Quốc "chiếm sóng"
Trên kênh
thứ hai, có thể thấy phía Việt Nam
đang yếu thế so với Trung Quốc. Dù không nhiều, nhưng đã có những bài viết khoa
học của học giả Trung Quốc về vấn đề lãnh hải đăng trên các tạp chí uy tín của
thế giới và khu vực như: Marine Policy, Marine Custom Management, Marine and
Coastal Law Journal (các tạp chí về hàng hải và luật biển), American Journal
for International Law (tạp chí nghiên cứu luật pháp, của Mỹ), Southeast Asia
Studies (tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, của Singapore).
Đây là
các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới, nghĩa là uy tín của chúng được thừa
nhận trên phạm vi quốc tế. Một bài viết được đăng trên những tạp chí loại này
mang lại danh tiếng cho sự nghiệp cá nhân của nhà khoa học - tại một số nước,
bậc lương và số lần tăng lương của giáo sư tỷ lệ thuận với số bài viết khoa học
được đăng ở tạp chí đầu ngành.
Quan
trọng hơn nữa, nó gây ảnh hưởng rất lớn đến cộng đồng. Trong ngắn hạn và trung
hạn, nó là tiếng nói có sức nặng với giới khoa học quốc tế. Trong dài hạn, nó
là nguồn tài liệu tham khảo có tác động đáng sợ. Một nhà khoa học trẻ Việt Nam
từng đặt vấn đề: "Giả sử 10-20 năm nữa, có nhà nghiên cứu phương Tây muốn
tìm hiểu về tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với Hoàng Sa -
Trường Sa: Cái mà ông ta tìm thấy sẽ là hàng chục bài viết của học giả Trung
Quốc trên các tạp chí quốc tế nhằm chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa là của họ.
Lúc đó, ông ta có muốn khách quan khoa học cũng khó. Tích tiểu thành đại, hàng
loạt bài viết như vậy sẽ làm cán cân sức mạnh nghiêng thêm về phía Trung Quốc,
gây ảnh hưởng rất bất lợi cho Việt Nam ".
Về phía
các học giả Việt Nam
ở trong nước, cũng đã có những bài viết khoa học liên quan tới vấn đề lãnh hải
và Hoàng Sa - Trường Sa. Tuy nhiên, các bài này chỉ được đăng tải bằng tiếng
Việt trên các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam (Tạp chí Hán Nôm, Nghiên cứu
Lịch sử, Lịch sử Quân
sự, Nghiên cứu Phát triển - tạp
chí của Thừa Thiên - Huế) . Số lượng bản in hạn chế - chừng 1.000
bản, phát hành trên diện rất hẹp, tới mức gần như “lưu hành nội bộ”.
Việt Nam yếu thế
Trung
Quốc cũng đã có khoảng 60 cuốn sách về Hoàng Sa - Trường Sa, bằng tiếng Trung
và tiếng Anh, như Trung
Quốc dữ Trung Quốc Nam Hải vấn đề (Trung
Quốc và vấn đề biển Nam Trung Quốc, Phó Côn Thành - Thủy Bỉnh Hòa, 2007), Nam Hải chư đảo địa danh luận cảo (Lưu Nam Uy, 1996), Nam Hải chư đảo
địa lý - lịch sử - chủ quyền (Lữ Nhất Nhiên chủ biên, 1992)... Chưa kể, còn
hàng chục công trình của các nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc ở Đài Loan, Hong Kong , Singapore ,
Anh, Mỹ.
Việt Nam
có vài đầu sách, như Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa -
Trường Sa (Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1995), Chiến lược Biển
Việt Nam đến năm 2020 (Nguyễn Hồng Thao chủ biên, Nhà xuất bản Sự thật,
11/2008)… Nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay, các sách đều bằng tiếng
Việt, phát hành rất ít. Đa số là "tài liệu tham khảo nội bộ"
hoặc cũng gần như "lưu hành nội bộ" bởi không được quảng bá và phát hành
rộng.
Gần đây,
Nhà xuất bản Tri thức bắt đầu tham gia giới thiệu rộng rãi tới công chúng các
cuốn sách nghiên cứu về chủ quyền biển, với mục tiêu giới thiệu được khoảng 5
đầu sách/năm. Tuy nhiên, theo ông Chu Hảo, Giám đốc Nhà xuất bản, khó khăn lớn
nhất là nguồn kết quả nghiên cứu của giới học giả Việt Nam còn hạn chế.
Hiện tại,
Việt Nam chỉ có ba cơ quan nhà nước từng đặt vấn đề nghiên cứu chính thức về
lãnh hải và luật biển, là Vụ Biển thuộc Ủy ban Biên giới Quốc gia, Trung tâm
Luật Biển và Hàng hải Quốc tế, Tổng cục Quản lý Biển và Hải đảo. Đếm số lượng
các nhà nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa, tính
cả người đã mất, thì “vét” trong cả nước được gần một chục người.
Còn Trung
Quốc đã có hàng chục cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về tranh chấp lãnh hải và
Hoàng Sa - Trường Sa từ hơn nửa thế kỷ qua. Ít nhất, có thể kể tới trung tâm
nghiên cứu trực thuộc các trường đại học Bắc Kinh, Hạ Môn, Phúc Kiến, Trung
Sơn, hoặc trực thuộc Ủy ban Nghiên cứu Biên cương, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á,
v.v…
Với kênh thứ ba - thông qua việc tổ chức hội thảo quốc tế, đưa
các học giả đi giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài v.v. - thì sự tham
gia của giới khoa học gia Việt Nam
càng yếu ớt hơn.
Cộng đồng
các nhà khoa học người Việt tại nước ngoài đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu để đưa
ra các bằng chứng giúp Việt Nam
tranh biện trong vấn đề lãnh hải. Chẳng hạn, Tiến sĩ Từ Đặng Minh Thu (Đại học
Luật Sorbonne), luật gia Đào Văn Thụy từng đọc bài tham luận tại
Hội thảo hè "Vấn đề tranh chấp Biển Đông" (New York, 1998), phân tích
lập luận của Việt Nam và Trung Quốc với nhiều lý lẽ khoa học xác đáng. Tuy
nhiên, không rõ vì lý do gì mà các công trình như vậy lại chưa được phổ biến chính
thức tại Việt Nam
Vì đâu
giới nghiên cứu Việt Nam
yếu thế?
Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nhận xét: "So tương quan
lực lượng với Trung Quốc trong chuyện nghiên cứu về lãnh hải, thì các công
trình của học giả Việt Nam
vừa ít ỏi, manh mún về số lượng, lại vừa không được sự quan tâm, hỗ trợ của xã
hội".
Ai cũng
biết rằng điều kiện cần để có bài viết khoa học là một quá trình nghiên cứu tập
trung cao và kéo dài. Nghiên cứu về vấn đề lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa lại
càng khó khăn hơn, nó đòi hỏi rất nhiều công sức, thời gian, kinh phí. Người
nghiên cứu phải có khả năng tiếp cận với các tài liệu cổ bằng nhiều thứ tiếng
khó (Hán, Nôm, Pháp, Anh, thậm chí tiếng Latin), phải bỏ chi phí mua tài liệu,
đi thực địa, trao đổi tìm kiếm thông tin, v.v... Đổi lại, mỗi bài viết trên các
tạp chí của Việt Nam
được nhận vài trăm nghìn đồng nhuận bút.
Còn việc đưa bài viết ra tạp chí quốc tế thì gần như không
tưởng, bởi thật khó để các nhà khoa học dồn sự nghiệp cho cả một công trình
nghiên cứu để rồi không biết… đi về đâu, có được đăng tải hay không. Thiếu kinh
phí, khó khăn trong việc tiếp cận các tài liệu "nhạy cảm" là những
vật cản lớn. Chỉ riêng việc dịch bài viết sang một thứ tiếng quốc tế, như tiếng
Anh hay tiếng Trung, cũng đã là vấn đề.
Một nhà
nghiên cứu độc lập, ông Phạm Hoàng Quân, cho biết: "Ở Trung Quốc, việc
tuyên truyền về Hoàng Sa - Trường Sa và lãnh hải được phân chia thành ba cấp.
Cấp thấp nhất là cấp phổ thông, cho quần chúng. Cấp hai và cấp ba là cho các
độc giả có trình độ cao hơn và các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Như ở Việt Nam thì chẳng
cấp nào phát triển cả".
Không có
văn bản quy định chính thức, nhưng tài liệu liên quan tới lãnh hải, biên giới
giữa Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên được coi là "nhạy cảm",
"mật", và một cá nhân khó mà có đủ tư cách để "xin" được
nghiên cứu về Hoàng Sa - Trường Sa hay chủ quyền đất nước. Ông Quân, với tư
cách nhà nghiên cứu độc lập, gặp khó khăn tương đối trong việc tiếp cận
các tài liệu khoa học phục vụ cho công việc. Dĩ nhiên là chẳng bao giờ ông được
mời tham dự những hội thảo chuyên đề về lĩnh vực mình nghiên cứu - thường chỉ
dành cho những nhà khoa học đã có biên chế chính thức ở một cơ quan nhà
nước nào đó.
Với một
cá nhân là như vậy. Với các viện nghiên cứu trực thuộc Nhà nước, tình hình cũng
không khả quan hơn. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét: "Về nguyên tắc,
phải là cấp trên đặt hàng, cấp dưới đề đạt lên. Nếu Nhà nước không đặt hàng,
các cơ quan chuyên môn có khả năng làm cũng e dè không muốn đề xuất. Các cá
nhân nghiên cứu độc lập thì không thể có điều kiện thuận lợi về sưu tập tư
liệu, điền dã thực địa, công bố kết quả của đề tài".
Không
tiếp cận được với các công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đành, người dân còn
không được giới truyền thông cung cấp thông tin và kiến thức về chủ quyền đất
nước. Trong khi, trên thực tế, "Việt Nam
có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" - như khẳng định của Bộ Ngoại giao. (Các
tuyên bố ngoại giao theo thông lệ này lại không kéo theo việc công bố một bằng
chứng cụ thể nào, khiến cho người nghe ngay cả khi muốn tham gia vào một nỗ lực
chung để xác lập chủ quyền cho Hoàng Sa - Trường Sa cũng bớt phần tự tin).
Chúng
ta có thể làm gì?
Về bản
chất, nghiên cứu khoa học là các nỗ lực cá nhân, tuy nhiên, với những vấn đề
thuộc diện "công ích" như tranh chấp chủ quyền, thì Nhà nước có vai
trò đặc biệt quan trọng.
Nhà nước
phải đặt hàng giới nghiên cứu, tạo thành một chiến lược lâu dài và bài bản,
đồng thời để cho giới truyền thông diễn giải và phổ biến những công trình
nghiên cứu chuyên sâu tới quần chúng sao cho tất cả mọi người đều có ý thức về
chủ quyền đất nước. Một số học giả người Việt Nam ở nước ngoài gợi ý rằng, cách
tốt nhất là Nhà nước "xã hội hóa" công việc nghiên cứu khoa học, bằng
cách tạo điều kiện để xã hội dân sự (tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, hiệp
hội, quỹ...) tài trợ cho các dự án khoa học, tạo điều kiện, thậm chí "luật
hóa", để người nghiên cứu được tiếp xúc với thông tin khi cần.
Một điểm
cần lưu ý là hoạt động nghiên cứu phải mang tính liên ngành, toàn diện, trên
mọi lĩnh vực: văn bản học, khảo cổ, địa chất lịch sử, thổ nhưỡng, công pháp
quốc tế...Theo quy luật số lớn, số lượng nghiên cứu càng nhiều thì khả năng có
những công trình chất lượng càng cao.
Sau hết,
không thể thiếu nỗ lực công bố các công trình nghiên cứu đó ra diễn đàn quốc
tế, nỗ lực diễn giải và phổ cập chúng tới người dân trong nước, cũng như, thông
qua chính sách "ngoại giao nhân dân", tới được dư luận quốc tế và
cộng đồng Việt Nam tại nước ngoài.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét