Nhân hai
trường hợp rò
Bàng
Quang-Âm Đạo
gặp tại
BVĐK Quảng Nam
Võ
ngọc Thạch*
* Đã báo cáo tại HN Tiết Niệu- Thận học Tp
HCM 2008.
Tóm Tắt
Tác giả
giới thiệu 2 trường hợp rò Bàng quang-Âm đạo(BQ-ÂĐ) được điều trị phẫu thuật
thành công tại BVĐK Quảng Nam.
1, Bn
Nguyễn thị T...,58t, năm 1982 bị rò BQ-ÂĐ sau cắt Tử cung toàn phần do thai chết
lưu,4 tháng sau đó Bn được mổ chữa rò nhưng thất bại, năm 1990 Bn được mổ chữa
rò lần 2 lại thất bại. Năm 2008, sau 26 năm mắc bịnh Bn được phẫu thuật lần 3 & đã ra viện trong tình trạng ổn
định.
2, Bn
Nguyễn thị Th...,41t, bị rò BQ-ÂĐ vào ngày hậu phẫu thứ 8 sau mổ cắt Tử cung
toàn phần để lại 2 phần phụ do nhân xơ Tử cung lớn. Bn được mổ chữa rò ngay vào
ngày hậu phẫu thứ 14 và đã ổn định, ra viện .
Kết luận
Rò BQ-ÂĐ là một trong những biến
chứng nặng nề, phiền toái nhất trong các phẫu thuật sản-phụ khoa, ảnh hưởng rất
lớn đến tâm sinh lý cũng như chất lượng cuộc sống người bệnh. Điều trị sớm & thành công ngay ở lần can thiệp đầu
tiên là những vấn đề cần quan tâm & thảo luận.
SUMMARY
Two cases report:
SURGICAL MANAGEMENT OF VESICOVAGINAL FISTULAS at QUANG NAM GENERAL
HOSPITAL
1, A
58-year-old woman, in 1982 she had been
suffering from vesicovaginal fistula after total abdominal cesarean
hysterectomy that caused by the stillbirth result of prolonged obstructed
labor.she had spent twice surgical treatment for closure of vesicovaginal
fistulas in 1982 and in 1990 but not been
succesful. In 2008 she had managed succesful
for repair of vesicovaginal fistula at
Quang nam General Hospital.
2, A
41-year-old lady she had suffered from vesicovaginal fistula after abdominal
total hysterectomy that caused by uterine fibroid on 8th day postoperation.she
had managed for closure of vesicovaginal fistula on 14th day postoperation and
she had dischared from hospital with good success.
Conclusion
Vesicovaginal fistula are one of the most
burdensome complications of gynecologic
and obstetrics procedures that can severely compromise the quality of life of patients.Early intervention
and successfuly in the first management are need interesting and discussible
subjects.
* Bs Chuyên khoa Ngoại Niệu,BVĐK Quảng nam
I.MỞ ĐẦU
* Rò Bàng quang-Âm đạo(BQ-ÂĐ) là một bệnh lý đã
được nói đến từ thời Ai cậpcổ đại, đó là sự thông thương bất thường giữa hai cơ
quan: BQ và ÂĐ, là loại rò đường tiết
niệu thường gặp nhất. Nguyên nhân chủ yếu là do chuyển dạ kéo dài và phẫu phạm trong các phẫu thuật sản-phụ
khoa (# 80-90% ) [2,4,5,7,8,9 ], ngoài ra còn do các bệnh viêm nhiễm mạn tính, do
xạ trị ung thư, do các phẫu thuật ở tiểu khung, do dị vật...và dị tật bẩm sinh.
*Bệnh
gặp ở mọi quốc gia trên thế giới, chỉ khác nhau về tần suất mà thôi!
*Về điều
trị cho tới nay phẫu thuật vẫn là chủ yếu .
*Ở Việt
nam chưa có một thống kê đầy đủ về bệnh lý này, nhưng chắc chắn một điều tần
suất mắc bệnh là không nhỏ, nhất là trong giai đoạn khó khăn chương trình chăm
sóc sức khỏe sinh sản còn bỏ ngỏ.
*Tại
BVĐK Quảng nam từ 8/4 đến 8/7/2008 chúng tôi đã gặp và điều trị phẫu thuật
thành công 2 trường hợp rò BQ-ÂĐ tương đối đặc biệt ( Một sau 26 năm và một sau 6 ngày). Chúng tôi muốn giới thiệu
để quí đồng nghiệp tham khảo, bàn luận, rút kinh nghiệm ...với mục đích sẽ điều
trị tốt hơn cho những trường hợp khác.
II.GIỚI
THIỆU BỆNH ÁN
BỆNH ÁN 1
Bệnh nhân : Nguyễn thị T...,58t,
Nghề
nghiệp : làm ruộng
Quê
quán :
Thôn 8, xã Duy sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng nam
V/viện : 08/04/2008 SNV:9970/2008
Điều
trị :
mổ 16/04/2008
R/viện : 03/05/2008
Lý do vào
viện : nước tiểu rỉ ra liên tục ở âm đạo.
*Tiền sử
và Bệnh sử:
- 05/1982 sinh con thứ 5 chuyển dạ 2 ngày
tại trạm xá xã nhưng không đẻ được, sau đó được chuyển lên BV huyện rồi tới BV
tuyến tỉnh cùng ngày, tại đây Bn được mổ cấp cứu lấy thai chết lưu và cắt tử
cung toàn phần. Hậu phẫu Bn bị rò BQ-ÂĐ, ra viện hẹn tái khám để điều trị tiếp.
- 09/1982 bn được mổ chữa rò lần nhất (mổ
đường bụng) nhưng không thành công.
- 1990
bn tái khám và được mổ lần 2 (mổ qua âm đạo) lại thất bại.
*Tình trạng
Bn lúc nhập viện:
Tỉnh táo, tổng trạng trung bình, da-niêm mạc:
hồng, sinh hiệu: ổn định, trọng lượng: 45kg, tim-phổi: bình thường, gan-lách: không
lớn, 2 thận: không sờ chạm, sẹo mổ cũ (đường Pfannenstiel) liền tốt. Bn vẫn còn
đi tiểu được nhưng lượng ít. Đặt mỏ vịt khám âm đạo: âm đạo viêm đỏ, không
ngứa, có nước tiểu rỉ ra, cho tay vào sờ cảm giác một vùng chắc ở túi cùng âm
đạo trước, test cục bông (+)
*Cận lâm
sàng:
Tất cả các xét nghiệm : Huyết học, sinh hóa máu,
nước tiểu... đều trong giới hạn bình thường.
X-q
Tim-phổi: bình thường, KUB: không có sỏi cản quang hệ tiết niệu
UIV: không thấy gì bất thường ở đường niệu
Cystography: có hình ảnh thuốc cản quang ở âm đạo
Siêu âm: chưa thấy gì bất thường
Nội soi bàng quang: chưa được trang bị.
Hội chẩn thống nhất chẩn đoán: Rò BQ-ÂĐ tái phát
Bn được lên lịch mổ chương trình với phương pháp
mổ: đóng đường rò + cắm lại niệu quản(nếu cần) + mở rộng BQ bằng hồi tràng (nếu cần)
Bn được chuẩn bị tiền phẫu chu đáo & chuyển mổ
16/04/2008.
*Tường trình phẫu thuật:
Tư thế: nằm ngữa, vô cảm : mê NKQ.
Mở bụng đường giữa rốn-vệ, khoang Retzius dính
cứng chắc (do 2 lần mổ trước); mở BQ theo chiều dọc: BQ thành dày # 5mm, dung
tích còn khá, không u bướu, không có sỏi, niên mạc trơn láng, có 2 lỗ rò nằm
cạnh nhau ngay dưới gờ liên niệu quản, lỗ bên phải # 2mm, lỗ bên trái # 4mm
& nằm gần miệng niệu quản trái,
Đặt 2 Feeding tube 8 Fr vào 2 niệu quản để làm mốc
Mở phúc mạc ; tử cung không còn, 2 phần phụ bình
thường, cùng đồ dính nhiều.
Tiến hành Pt O’Conor [3] có cải tiến và
dùng phúc mạc chèn vào giữa BQ và âm đạo.
Mở BQ ra da bằng một Pezzer 22 Fr.
Dẫn lưu khoang Retzius, đóng lại vết mổ, đặt Foley
20Fr niệu đạo lưu.
Xét thấy dung tích BQ còn khá nên không làm pt mở
rộng BQ.
Thời gian mổ 120 phút
Không truyền máu, lượng máu mất không nhiều
*Hậu Phẫu:
- Kháng sinh: Ceftazidim + Gentamycin.
- rút ống dẫn lưu ổ bụng sau 24 giờ.
- rút dẫn lưu Retzius sau 48 giờ.
- rút dẫn lưu BQ trên xương mu vào ngày thứ 12.
- rút thông niệu đạo vào ngày thứ 16 sau khi chụp
Cystography kiểm tra.
- Bn tự tiểu tốt, hết rò rỉ và ra viện.
*Theo dõi:
Tái khám & thông tin qua điện thoại đã trên 3
tháng nay Bn luôn ổn định
BỆNH ÁN 2
Bn: Nguyễn Thị Th... ,41tuổi.
Địa chỉ :
xã Bình Qúy, huyện Thăng Bình, Quảng Nam.
V/viện :
19/06/2008 SNV:17723/2008.
Điều trị :
phẫu thuật 24/06/2008.
R/viện :
08/07/2008.
*Tiền
sử-Bệnh sử:
Bn có nhân xơ Tử cung đã lâu, điều trị nội khoa
không kết quả.
Bn nhập viện tại khoa Phụ-Sản BVĐK Quảng Nam
10/06/2008 và được mổ hở cắt Tử cung toàn phần để lại 2 phần phụ qua đường bụng.
Hậu phẫu ổn định, ra viện vào ngày hậu phẫu thứ 7. Về nhà đúng được một ngày
thì xuất hiện nước tiểu xì ra ở âm đạo, và Bn nhập viện lại ngay. Kết quả GPB :
U cơ trơn lành tính (MS: Q 8993/2008. Bs Hiền)
*Tình trạng
lúc nhập viện:
Bn: tỉnh táo, vẻ lo lắng bất an, huyết động ổn
định, không sốt, nước tiểu rỉ ra liên tục ở âm đạo., không có cảm giác muốn
tiểu.
Đặt mỏ vịt khám âm đạo: thấy nước tiểu rỉ ra , nghiệm
pháp cục bông (+), sờ vào mỏm âm đạo phát hiện một lỗ rò đút lọt đầu ngón tay
trỏ.
Khám các bộ phận khác không thấy bất thường.
*Cận lâm
sàng:
Tất cả các xn tiền phẫu đều trong giới hạn bình
thường
*Chẩn đoán:
Rò BQ-ÂĐ sau mổ cắt Tử cung toàn phần qua đường bụng
* Điều trị:
Bn được đặt thông tiểu lưu, dùng kháng sinh, và soạn mổ chương trình đóng đường
rò sớm (ngày thứ 14 sau mổ).
*Tường trình phẫu thuật:
Bn nằm ngữa, vô cảm: mê NKQ
Mở bụng đường giữa rốn-vệ
Vào ngay ổ phúc mạc thấy mạc nối lớn đến bám vào
cùng đồ
Mở mặt trước BQ: thấy ngay lỗ rò đường kính # 1,5cm
ngay dưới Trigone, đường rò còn nham nhỡ chưa trơn láng. Đặt Feeding tube 8Fr
vào lỗ niệu quản trái dễ dàng nhưng với lỗ niệu quản phải thì ngay cả ống thông
số 6Fr vẫn bị vướng ở vị trí # 3cm tính từ lỗ niệu quản, tuy nhiên quan sát vẫn
thấy nước tiểu phụt ra bình thường. Nghi ngờ có gập góc ở niệu quản phải, tiến
hành bóc tách niệu quản từ bên ngoài BQ, phát hiện có một mũi khâu làm gập góc
niệu quản ở đoạn sắp đổ vào BQ, cắt múi chỉ này niệu quản hết vướng.
Tiếp tục với Pt O’Conor có cải tiến và
dùng Mạc nối lớn chèn vào giữa BQ và Âm đạo
Mở BQ ra da bằng một Pezzer 22 Fr và đóng lại mặt
trước BQ 2 lớp
Dẫn lưu khoang Retzius bằng Penrose, đóng vết mổ 2
lớp
Đặt Foley 22 Fr niệu đạo lưu .
*Hậu phẫu:
Kháng sinh: Ceftazidine + Gentamycine + Ciplox
Diễn biến thuận lợi
Rút dẫn lưu BQ vào ngày thứ 12
Rút thông niệu đạo vào ngày thứ 16 sau khi chụp
Cystogram kiểm tra
Bn tự tiểu tốt và ra viện
*Theo dõi:
Đã tái khám
2 lần Bn hoàn toàn ổn định
III. NHẬN
XÉT & BÀN LUẬN:
1, Về
chẩn đoán:
Chẩn đoán rò BQ-ÂĐ thường không khó nhất là trên
những Bn vừa mới được can thiệp các phẫu thuật về sản-phụ khoa hay trong thời
gian hậu sản một trường hợp sinh khó.Tuy nhiên cũng cần phân biệt với : rò niệu
quản-âm đạo, rò niệu đạo-âm đạo, tiểu không kiểm soát... Ngoài các xét nghiệm
thường qui, các xét nghiệm chuyên khoa như : UIV, Cystogram , VCUG...thì Nội
soi bàng quang là xét nghiệm quan trọng nhất nó cho biết : vị trí, số lượng, tình
trạng đường rò cũng như các bệnh lý kèm theo của bàng quang...để có kế hoạch
điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân [1,2,3,5,7,9]
Rất tiếc BV chúng tôi chưa có Phòng nội soi Niệu
nên không thể thực hiện được xét nghiệm mang tính quyết định này.
2 , Về
điều trị :
2.1 Điều
trị bảo tồn :
Theo Y
văn với những lỗ rò nhỏ < 3mm có thể điều trị bảo tồn bằng cách đặt thông tiểu, kết hợp với kháng
sinh và chống co thắt bàng quang
(anticholinergics). Điều trị bảo tồn kết quả thường không chắc chắn nhất
là với những lỗ rò > 6 tuần lễ [2,3,7,8,9]. Tancer (1992) thành công được 3
Bn trong tổng số 151 Bn , Roger thành
công được 3Bn trong số 45 trường hợp
[8 ]
1985
Zimmen cho rằng : nếu một lỗ rò nhỏ đặt thông niệu đạo trong 30 ngày mà không
khỏi thì nên lên kế hoạch phẫu thuật [ 8
].
Một số phương pháp khác như : điện đông
(electrocoagulation), keo fibrine (Fibrine glue) ,...cũng được nhắc đến nhưng
kết quả không nhiều và chưa được chấp nhận rộng rãi [ 8,9 ]
Hai Bn chúng tôi người thứ nhất đã thất bại sau 2
lần mổ, thời gian mắc bệnh quá lâu (26 năm),người thứ hai có một lỗ rò khá lớn
(nước tiểu chảy qua đường rò nhiều hơn qua thông tiểu) do vậy mà không thể là
ứng cử viên cho cách điều trị này.
2.2
Điều trị phẫu thuật:
- 1663 Hendrik von Roonhuyse là người đầu
tiên điều trị rò BQ-ÂĐ bằng phẫu thuật.
- 1852 James Marion Sims thông báo đã phẫu
thuật thành công cho 30 Bn của mình với việc sử dụng dây dẫn bằng bạc (silver
wire) qua âm đạo và ông bài bác mạnh mẽ việc dùng Nitrat bạc để chữa rò [5,8,9
]. Những nguyên tắc cơ bản trong mổ của ông như: Cầm máu tốt, phẫu tích và cắt
đường rò cho tới mô lành, khâu kín và không được căng, dẫn lưu BQ thật tốt,...
cho tới nay vẫn còn ngyên giá trị !
Tỷ lệ thành công trong điều trị ngoại khoa từ 90-
98% tuỳ từng tác giả [ 3,8 ] Vấn đề nên mổ vào thời điểm nào và làm sao
thành công ngay ở lần can thiệp đầu tiên là cần quan tâm xem xét.
*Thời điểm can thiệp:
Quan
niệm trước đây là chờ đợi ít nhất từ 3- 6 tháng bất luận do nguyên nhân gì ,với mục đích để đường rò “ trưởng
thành “ (mature fistula ) ,môi trường chung quanh hoàn toàn ổn định ...[1,7,8,9
]
Ngày nay quan niệm này đã được xét lại .Từ năm
1979 Persky , Herman và Guerrier đã
khuyến cáo nên can thiệp sớm [1] và trên thực tế đã chứng minh cho quan điểm
này .
Theo
chúng tôi ngoại trừ những trường hợp Rò do điều trị tia xạ, do ung thư di căn,
do viêm nhiễm ... với những trường hợp Rò do phẫu phạm ( những bịnh lành tính )
hoàn toàn có thể can thiệp sớm. Cơ sở lý thuyết của chúng tôi như sau :
- Khi
lỗ Rò hình thành ( Bn bị rỉ nước tiểu )
tức tổ chức mô hoại tử đã tách rời khỏi mô lành, đồng nghĩa với sự phân định rõ
ràng giữa tổ chức lành và tổ chức hoại tử. Điều này giúp chúng ta không cần
thiết phải cắt lọc nhiều trong mổ .
-
Phúc mạc và Mạc nối lớn có đặc điểm chống viêm và hấp thu dịch rất tốt. Đặc biệt
Mạc nối lớn rất giàu mạch máu, di động và kéo dài dễ dàng, là loại mô thích hợp
nhất để chèn vào giữa BQ và ÂĐ (interpositional tissues).
Từ 1972 Kiricuta & Goldstein là những tác giả
đầu tiên đề nghị dùng Mạc nối lớn (pedicled omental flaps) trong phẫu thuật
chữa rò [5]
Thực
nghiệm trên động vật cho thấy Mạc nối lớn làm kích thích sự tái sinh niêm mạc
BQ [5]
Persky
(1979) đã mổ sớm (trong tuần thứ 1 đến tuần thứ 10) cho 7 Bn, trong đó 6 Bn
được mổ đường bụng và dùng Mạc nối lớn chèn vào giữa BQ và ÂĐ, và cả 6 đều
thành công ![8]
- Hiện
nay chúng ta có trong tay nhiều loại kháng sinh mạnh, chỉ khâu tốt, phương tiện
Gây mê - Hồi sức hiện đại ,...
Trên cơ sở đó chúng tôi mạnh dạn can thiệp rất
sớm cho Bn thứ 2 vào ngày hậu phẫu thứ 14 tức ngày thứ 6 kể từ lúc lỗ rò
hình thành và đã thành công .
Có thể
xem đây là một trong số rất ít trường hợp Rò BQ-ÂĐ được can thiệp thành công
vào thời điểm sớm nhất !
Ở Bn thứ
nhất chúng tôi dùng một mãnh Phúc mạc và đã cho kết quả tốt, đây là trường hợp
đã qua 2 lần can thiệp nhưng không thành công và có thời gian mang bịnh 26 năm.
MH Kam & cs ở BVĐK Singapore gặp một Bn mắc bịnh 24 năm với triệu chứng của
Tiểu không kiểm soát do BQ thần kinh và chỉ phát hiện rò BQ-ÂĐ một cách tình cờ
khi nội soi BQ [6].
* Chọn
Đường mổ :
Mổ chữa
Rò BQ-ÂĐ có thể qua ngã âm đạo, qua ngã bụng hoặc kết hợp cả hai. Đường bụng có
thể chỉ qua BQ mà không qua ổ Phúc mạc hoặc sử dụng cả 2. Chọn đường vào tùy
thuộc vào: vị trí, số lượng, nguyên nhân đường Rò, tình trạng BQ, bịnh lý phối
hợp ...và kinh nghiệm của từng PTV, từng chuyên khoa (Sản, Niệu khoa, Ngoại
khoa Tổng quát). Mỗi đường mổ có những chỉ định, thuận lợi và khó khăn riêng, điều
này đã được đề cập nhiều trên Y văn [2,3,4,5,7,8,9] .
Vì muốn
dùng Phúc mạc và Mạc nối lớn, vả lại Bn thứ nhất của chúng tôi đã qua 2 lần mổ
thất bại, thời gian mang bịnh quá lâu, có khả năng phải can thiệp trên đường
tiết niệu (mở rộng BQ hay cắm lại niệu quản) nên chúng tôi chọn đường bụng qua
BQ và qua ổ phúc mạc. Trên Bn thứ 2 nếu mổ qua âm đạo sẽ bỏ sót tổn thương gập
góc niệu quản.
Bảng
dưới đây giới thiệu kết quả của một số tác giả
Tác giả Bn(N) Kết quả(%) Thời
điểm mổ Đường mổ
|
Collins(1960) 24 16(67) 20(<2 tháng) 24
qua âm đạo
Eisen (1974) 29 26(90) 29(>3tháng) 29 đường bụng
Persky(1979) 7 6(86) 7( < 10 tuần) 6 đường bụng
1 qua âm đạo
Tancer(1980) 45 42(93) 8-16 tuần 43 qua âm đạo
1 đường bụng
1 bảo tồn
Wein(1980) 34 30(88) > 3 tháng 34 đường bụng
Keetel(1982) 168 158(94) > 3 tháng 156 qua âm đạo
6 đường bụng
6 kết hợp
Lee et al (1988) 182 178(98) 15< 2th 145 qua âm đạo
167>
2th 37 đường bụng
Elkins(1990) 23 21(91) > 2th 23 qua âm đạo
Blandy(1991) 25 25(100) 12< 1,5 th
13>
1,5th 25 đường bụng
O’Conor(1991) 77
70(91)
> 2th 77 đường bụng
Raz et al(1993) 19 16(84) > 2th 19 qua âm đạo
Brandt(1998) 80 77(96) > 1th 80 đường bụng
Nesrallah(1999) 29
29(100) > 6 tuần 29 đường bụng
|
Nguồn: Roger
Dmochowski, MD: Surgery for vesicovaginal fistula, urethrovaginal fistula,
and urethral diverticulum. Campbell’s Urology 2002; 35; 1202.
|
Chúng tôi chưa có kinh nghiệm mổ qua đường âm
đạo cũng như việc dùng các cơ như : hành xốp (Bulbospongiosus), Gracilis hay mỡ
môi lớn v.v.. làm mãnh ghép.
Với sự
bùng nổ của Phẫu thuật Nội soi, một số Tác giả đã bắt đầu áp dụng kỹ thuật ít
xâm lấn này và đạt được kết quả tốt [7]
IV.KẾT LUẬN:
Qua hai trường hợp trên cùng với
tham khảo Y văn có thể đưa ra hai nhận xét sau:
+ Mãnh ghép Phúc mạc và đặc biệt Mạc nối lớn làm tăng tỷ lệ thành công
trong điều trị Rò BQ-ÂĐ bằng phẫu thuật
+ Đối với Rò BQ-ÂĐ sau các phẫu thuật Sản
- Phụ khoa lành tính cũng như sau đẻ khó, chuyển dạ kéo dài; có thể can thiệp
sớm mà không nên chờ đợi quá lâu làm ảnh hưởng đến cuộc sống người bệnh.
V. TÀI LIỆU
THAM KHẢO:
1, Emil A. Tanagho, MD (2004)
Disorders of the Bladder, prostate, and Seminal Vesiclas in: Emil A.Tanagho,
M.D (eds) . Smith’s General Urology. 16th edition, pp:
584-586. Lange Medical Books/ Mc Graw - Hill.
2, Eric S. Rovner (2001). Urinary Fistulae. in: Philip Hanno, MD (eds) Clinical Manual of
urology, 3rd edition pp: 233-334. Mc Graw - Hill.
3, Frank Hinman, Tr, MD (1998) Vesicovaginal fistulae repair. in: Frank Hinman (eds). Atlas of Urologic surgery 2nd edition, pp: 587-600 WB .
Saunder company
4, Kevin T . Mc Vary; Fray F. Marshall (1996) Urinary Fistulas. in: Jay Y.
Gillen water, MD (eds) Adult and pediatric urology 3rd edition Vol
2, pp: 1355- 1373. Mosby.
5, Lynn Stothers, MD., M.H.Sc., F.R.C.S.C; Ashok Chopra, MD; Shlomo Raz, MD
(1996). Vesicovaginal Fistula. in: SH Lomo Raz, MD (eds). Female urology 2nd
edition, pp: 490 - 504. W.B. Saunders Company. Med j 2003 vol 44 (4) 181- 184.
7, Peter O. Kwong and O. Lenaine Westne
6, MH Kam, YH Tan, MYC Wong (2003) A 12- year experience in the surgical
management of vesicovaginal fistulae.
In: Singapore y (2004) Vesicovaginal Fistula in: SAM D Graham Tr., MD
(eds). Glenn’s Urology surgery. 6th edition, pp 198-205.
Lippincott Williams & Wilkins.
8, Ray mond A. Lee (2000). Management of Genitourinary Fistulas in: W.
Glenn Hurt, MD. (eds). Urogynecologic Surgery 2nd edition, pp: 141 -
148. Lippincott William & Wilkins.
9, Roger Dmoclowski, MD (2002) Surgery for vesicovaginal Fistula, urothrovaginal
fistula, and urethral diverticulum in: Patrick C. Walsh, MD (eds) Campbell’s
Urology, 8th edition, vol 2, pp: 1195 – 1203. Saunders.
Quá công phu! Bài viết thật chất lượng!
Trả lờiXóa