Case report
Preureteral Vena Cava
Vo Ngoc Thach
Abstract
Retrocaval Ureter
or Preureteral Vena Cava or Circumcaval Ureter is a rare congenital abnormality
in which ureter is lie behind the Vena cava, causing obstruction which leads to
hydronephrosis and lumbar pain. It occurs as a consequence of the persistence
of the subcardinal vein during embryologic development. Intravenous urography,
retrograd pyelography are main diagnostic investigations. Today, CTscan with
using three- dimensional imaging may be the procedure of choice to confirm the
diagnosis and avoid retrograd ureteropyelography. Surgical intervension is
requied in most of cases.
We present a case of
23 year old female which presented with right flank pain, hydronephosis on
Ultrasound. Diagnosis was confirmed by UIV and Ctscan. Open surgical managent
was performed at Pacific Tam Ky Hospital on August 6, 2013. The ureter segment behind of the Vena cava was excised,
ureteroureteral end to end reanastomosis was done. Postoperative recovery was
uneventful.
Key words: Retrocaval Ureter, Preureteral Vena Cava,
Circumcaval Ureter, Congenital venous anomaly.
Thông báo một trường hợp: Tĩnh Mạch Chủ
Dưới nằm trước
Niệu quản
Bs- Võ Ngọc Thạch
I/ Giới thiệu
Niệu quản nằm sau
Tĩnh mạch chủ, là một dị tật bẩm sinh hiếm gặp, do phát triển bất thường của
mạch máu trong thời kỳ sinh trưởng bào thai. Dị tật được Hochstetter mô tả đầu tiên vào năm 1893. Trên y văn thế
giới, khoảng trên 350 ca đã được báo cáo [7,13]. Ở Việt nam, trên dưới 20
trường hợp đã được phát hiện [6,8]. Tại Bệnh viện Thái Bình Dương- Tam Kỳ,
Quảng Nam ,
vào ngày 6/8/2013, chúng tôi đã gặp và điều trị thành công một trường hợp bệnh
lý này; nay, thông báo để quí đồng nghiệp có thể chia sẻ trong các bệnh nhân
tương tự có thể gặp.
II/ Trường hợp lâm sàng
1, Hành chánh
Bệnh nhân: Trần Thị Ly N… , 23T, nữ
Địa chỉ: phường
Phước Hòa, tp Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Vào viện: ngày 5/8/2013 , SNV:1308000277
2, Lý do nhập
viện: đau hông lưng bên phải
3, Bệnh sử:
Bệnh nhân đau
hông lưng bên phải trên 3 tháng nay, đau âm ỉ, không tiểu máu, không tiểu buốt, có dùng thuốc, nhưng
không khỏi. Gần đây đau nhiều hơn, đi khám bệnh, phát hiện Thận Phải ứ nước,
nên xin nhập viện điều trị.
4, Khám hiện tại:
Bệnh nhân tỉnh
táo, huyết động ổn định, hội chứng nhiễm trùng(-), hội chứng đường tiểu
dưới(-). Khám xét lâm sàng không thấy gì đặc biệt, ngoài dấu hiệu Rung thận
Bệnh nhân thấy đau tức nhẹ.
-
Có biểu hiện thiếu máu nhẹ
-
Sinh hóa máu trong giới hạn bình thường
-
Tổng phân tích nước tiểu trong giới hạn bình thường
-
Siêu âm: Thận Phải ứ dịch độ 2, niệu quản đoạn trên dãn
lớn
-
KUB: không thấy sỏi cản quang
-
UIV: Đài bể thận phải và niệu quản trên dãn lớn, có
hình ảnh như cây kèn Saxophone, hình dáng và chức năng thận Trái bình thường
-
Ctscan Bụng: cho hình ảnh đường tiết niệu cũng tương tự
như trên UIV, đặc biệt không thấy hình ảnh khối choáng chỗ sau phúc mạc
5, Chẩn đoán: Dị dạng Tĩnh mạch chủ dưới nằm
trước Niệu quản
6, Điều trị:
Ngoại khoa, lên lịch mổ chương trình( mổ mở)
Trong mổ xác định chẩn đoán trước mổ là đúng
Tiến hành cắt bỏ đoạn Niệu quản nắm sau TMCD, đưa Niệu quản nằm
lại đúng vị trí, nối Niệu quản- Niệu quản tận tận, trên 1 double J, 6Fr ;
gởi mẫu Niệu quản được cắt bỏ xét nghiệm GPB.
III/ Nhận xét- Bàn luận:
1, Nguyên nhân
Đây là một dị
dạng của Tĩnh mạch chủ dưới trong quá trình phát triển bào thai. Về
Phôi thai
học, 3 đôi tĩnh mạch nguyên thủy gồm: Tĩnh mạch gốc sau (posterior cardinal veins), Tĩnh mạch gốc dưới ( subcardinal veins), Tĩnh mạch gốc trên( supracardinal veins), lần lượt xuất hiện trong quá trình phát triển phôi thai và có liên quan chặt chẽ với trung thận, và đã tạo nên thân của Tĩnh mạc chủ dưới.[1,4]. Bình thường Tĩnh mạch chủ dưới phần dưới thận do
tĩnh mạch gốc trên tạo nên; nhưng nếu nó do tĩnh mạch gốc dưới tạo thành, thì niệu quản lại nằm sau tĩnh mạch và bất thường xảy ra ( Theo Maksimenko-1949, Hollinshead-1956) [2,4,5]; tuy nhiên, Considin (1966) cho rằng: Dị tật xảy ra là do tồn tại của tĩnh mạch gốc sau, trong quá trình phát triển phôi thai [5]; có lẽ đây là một mhầm lẫn do in ấn chăng(?). Như vậy về mặt thuật ngữ thì Preureteral Vena Cava là chính xác nhất, vì đây là sự phát triển bất thường của mạch máu bào thai.
tĩnh mạch gốc trên tạo nên; nhưng nếu nó do tĩnh mạch gốc dưới tạo thành, thì niệu quản lại nằm sau tĩnh mạch và bất thường xảy ra ( Theo Maksimenko-1949, Hollinshead-1956) [2,4,5]; tuy nhiên, Considin (1966) cho rằng: Dị tật xảy ra là do tồn tại của tĩnh mạch gốc sau, trong quá trình phát triển phôi thai [5]; có lẽ đây là một mhầm lẫn do in ấn chăng(?). Như vậy về mặt thuật ngữ thì Preureteral Vena Cava là chính xác nhất, vì đây là sự phát triển bất thường của mạch máu bào thai.
CTscan-3D |
Hình TMCD nằm trước NQ |
2, Phân loại
Bateson và Atkinson
(1969), Crosse và cộng sự (1975), Kenawi và Williams (1976) [1,7] chia dị dạng
này thành 2 type. Type I, hay gặp nhất, thường gây biến chứng thận ứ nước
nhiều, Niệu quản thường bị chèn ép ở mức bờ ngoài cơ Thắt lưng chậu ( Iliopsoas)
và bị gấp khúc, trước khi nó chui sau Tĩnh mạch chủ dưới; Niệu quản phía trên
chỗ chèn ép dãn lớn kết hợp với ứ nước ở đài- bể thận, làm cho hệ thống bài
niệu có hình thù giống như cây kèn
Saxophone hay chữ “J” ngược trên phim UIV. Type II, ít gặp hơn, tình trạng ứ
nước ở thận cũng nhẹ hơn, niệu quản không bị gấp khúc, trên UIV, thường thấy Bể
thận và Niệu quản nằm ngang, thẳng góc với cột sống.
Khâu nối NQ |
3,
Tỉ lệ mắc bệnh
Khi khám
nghiệm trên tử thi (autopsy), người ta thấy tỉ lệ này là # 1/1500 ( Heslin và
Mamonas, 1951) [1,4,]. Như vậy, tỉ lệ mắc bệnh này trong dân chúng không hề
nhỏ, nhưng có lẽ đa phần thuộc type II, không ( hoặc ít) gây triệu chứng, nên
người bệnh không được phát hiện và cứ thế sống khỏe mạnh cho đến hết đời!
Tỉ lệ giữa nam
và nữ là 4:1 ( Xiaodong và cs 1990); năm 1976, Kenawi và Williams, tổng kết Y
văn thế giới, thấy có, 114 nam và 41 nữ, tỉ lệ: 2,5:1.[7]
Đây là một dị
tật bẩm sinh, bệnh nhân chỉ có triệu chứng khi Thận bị ứ nước. Trước đây, trên
Y văn, đa số bệnh nhân được phát hiện ở lứa tuổi từ 30- 40 [4,5,6,7]. Ngày nay,
bệnh nhân được chẩn đoán sớm hơn nhiều, có lẽ, nhờ có phương tiện hiện đại,
siêu âm là một thí dụ, phát hiện Thận ứ nước sớm nhất.
4, Triệu chứng lâm sàng:
Triệu chứng
phụ thuộc vào mức độ ứ nước của Đài-Bể thận, thông thường Thận ứ nước từ độ
I-II trở lên thì có biểu hiện lâm sàng như: đau hông lưng, nhiễm trùng Niệu,
nặng hơn có thể có viêm Thận – Bể Thận, đái máu v.v.., đôi khi có kèm theo sỏi
[5,6,7]
5, Xét nghiệm:
5, Xét nghiệm:
Hình ảnh
X-quang là quan trọng nhất, nó quyết định chẩn đoán, với type I, trên UIV, hình
ảnh Đài- Bể thận-Niệu quản dãn giống như hình cây kèn Saxophone hay như hình
cái móc câu. Tuy nhiên, với hình ảnh này, cũng cần phân biệt với những trường
hợp như: khối u sau phúc mạc, hoặc Xơ hóa sau phúc mạc gây chèn ép và làm gấp
khúc Niệu quản. Để chứng minh Niệu quản nằm sau TMC, thì film chụp Niệu quản-
Bể thận ngược dòng ( Retrograde Pyelography) là có giá trị hơn cả, với hình ảnh
Niệu quản đi chếch từ phải qua bên trái cột sống sau đó lại vòng qua lại bên
phải, làm cho Niệu quản có hình chữ S. Ngày nay, nhờ có Ctscan nên việc chẩn
đoán được thuận tiện hơn, chỉ cần chụp Niệu quản- Bể thận ngược dòng kết hợp
với cắt lớp CT là thấy ngay hình ảnh Niệu quản nằm sau TMCD. Với kỹ thuật 3D,
Ctscan, tạo dựng hình ảnh càng rõ ràng hơn và không cần thiết phải làm
Retrograde Pyelography, một thủ thuật xâm nhập [1].
UIV sau mổ |
6, Điều trị:
Khi đã có
biến chứng Thận ứ nước do chèn ép thì việc điều trị phẫu thuật là cần thiết.
Việc cắt nối đưa Niệu quản trở về vị trí giải phẫu bình thường, có thể thực
hiện bằng mổ mở hay bằng phẫu thuật Nội
soi là tùy thuộc vào trang thiết bị và tay nghề của PTV. Phẫu thuật nội soi, có
ưu điểm là :thẩm mỹ, ít đau, thời gian phục hồi nhanh hơn, nhưng thời gian mổ
kéo dài hơn.
Việc cắt-nối
là quan trọng nhất, trước đây, đa số tác giả đều nối kiểu Niệu quản- Niệu quản
tận-tận, nhưng ngày nay, theo Campbell Urology (2012) [5], đièu trị chuẩn bất thường này là mổ mở và cắt nối Bể thận- Bể thận
( The standard repair of retrocaval
ureter is open surgical pyelopyelostomy), nối theo kiểu này sẽ tránh được
biến chứng hẹp miệng nối sau này.
IV/ Kết luận:
Là một dị tật
hiếm nhưng có thể gặp, do vậy, đứng trước một trường hợp Thận ứ nước mà không
có nguyên nhân rõ ràng, thì nên nghĩ đến bệnh lý này, để tránh bỏ sót và điều
trị cho Bệnh nhân tốt hơn!
…………………………………………………………………………………………
Tài
liệu tham khảo
1, Craig A. Peters, MD, FACS, FAAP.
Richard N. Schlussel, MD. Cathy Mendelsohn, PhD. Ectopic Ureters, Ureterocele,
and Ureteral Anomalies. In: Campbell-Walsh UROLOGY (2012) Alan J. Wein,MD,PhD
(Hon), FACS ,editors. 10th Edition, Volume 4.
Saunders, an imprint of Elsevier Inc. Pp: 3263-3265
2, M.D. Dzhavad, E.M. Shimkus. Ureteral
Anomalies. In: Surgery of Kidney and
Ureteral Anomalies (1980). Moscow ;
pp: 351-356.
3, N.R. Dunnick, MD, C.M. Sandler, MD.
Congenital Anomalies. In: Textbook of URORADIOLOGY (1997) 2nd edition. Williams
& Wilkins. Pp: 25-27
4, Richard N. Schlussel, MD. Alan B.
Retik, MD. . Ectopic Ureters, Ureterocele, and
other Anomalies of the Ureter. In: Campbell ’
UROLOGY (2002). Alan B. Retik, MD. E. Darracott Vaughan, Jr., MD. Alan J. Wein,
MD, editors. 8th edition, Volume 3. SAUNDERS. Pp: 2044-2046.
5, Stephen Y.Nakada, MD. Thomas H.S.Hsu, MD. Management of Upper
Urinary Tract Obstruction. In: Campbell-Walsh UROLOGY (2012) Alan J.
Wein,MD,PhD (Hon), FACS ,editors. 10th Edition, Volume 4. Saunders, an imprint of Elsevier Inc. Pp:
1147-1149
6,
Trần Chí Thanh, Đỗ Ngọc Sơn, Vũ Nguyễn Hải Ca, Phạm Văn Thành Công. Kết quả
điều trị phẫu thuật hẹp Niệu quản sau Tĩnh mạch chủ dưới type I.Y Học Thực Hành
số 769+770. Huế 6-2011, trang: 28-30.
Tham khảo trên mạng:
7, Diagnosis and Treatment of the Circumcaval Ureter - EU-ACME
eu-acme.org/europeanurology/upload.../Salonia.pdmodified.
11,
www.tua.org.tw/magazine/.../dw2006210145817_643-1....
12 ,www.tua.org.tw/.../dw2005125171313_蔡德甫494-1.pdf
13, www.jumdc.tuf.edu.pk/articles/volume.../JUMDC-10.pdf
14, Left retrocaval ureter associated with left inferior vena cava.
www.ajronline.org/doi/pdf/10.2214/ajr.155.3.2117354
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét